Sách được viết bởi Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

 

Cha đã đi một quãng đường,

hân hoan có, gian khổ có,

nhưng luôn luôn tràn trào hy vọng,

vì có Chúa và Mẹ Maria bên cha.

Nếu Chúa cho chọn lại,

Cha không chọn đường nào khác.

Cha đã hạnh phúc và vui tươi,

vì cha đã hy vọng vào Chúa,

và cha chỉ biết yêu thương.

Hôm nay Chúa cho cha,

những giây phút thân mật bên Chúa,

Cha khởi sự ghi lại cho con,

như cha mong ước từ lâu,

những tâm tình khiêm tốn,

kinh nghiệm sống của cha.

Đây là tâm sự của một người cha,

Cha không nói gì mới mẻ với con,

Cha chỉ nhắc lại những lời nhắn nhủ,

thắm thiết và chí tình,

đã biết bao lần nhẹ nhàng,

đổ vào tai con, vào tim con,

giữa những náo động của trần thế,

con hãy bình tĩnh,

suy nghĩ đôi lời thâm tình của cha.

Mong những tư tưởng đơn thành này

tỏa ánh sáng và an hòa,

biến con nên hồn tông đồ,

hồn cầu nguyện, hồn yêu mến,

Ân sủng và bình an Chúa

ở với con trên đường hy vọng.

Dù là xích vàng, Còn bị ràng buộc, Con không lên đường được

 

1. Chúa “dắt con trên đường, để con ra đi, và thu được nhiều hoa trái.” Ðường ấy là “đường hy vọng”, vì chan chứa hy vọng, vì “đẹp như hy vọng.” Sao không hy vọng khi con đi với Chúa Giêsu, khi con về cùng Ðức Chúa Cha?

2. Bí quyết của đường hy vọng gồm ba điểm:
1. Ra đi: “Bỏ mình”
2. Bổn phận: Vác thánh giá
 mình mỗi ngày
3. Bền chí: “Theo Thầy”

3. Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước.

4. Abraham đã ra đi, vì hy vọng đến đất hứa. Maisen đã ra đi, vì hy vọng cứu dân Chúa khỏi nô lệ. Chúa Giêsu đã ra đi từ trời xuống đất, vì hy vọng cứu nhân loại.

5. Dù có ra khỏi nhà, đi phương xa vạn dặm mà cứ mang theo tất cả tật xấu, cả con người cũ, thì có khác gì ở nhà đâu?

6. Các thánh là những người điên vì Chúa. Khôn ngoan thế gian quá không làm thánh được.

7. Ðã ra đi phải bất chấp lưỡi thiên hạ đàm tiếu. Ba Ðạo sĩ ra đi, hy vọng gặp Chúa Cứu Thế, họ đã gặp; Phanxicô Xavie ra đi, hy vọng cứu các linh hồn, ông đã gặp; Goretti ra đi, thoát cơn cám dỗ, hy vọng gặp Chúa, Chị đã gặp.

8. Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Ðạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo; Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui, Goretti liều mạng sống.

9. Tiến lên trên đường hy vọng, bất chấp những van nài “tan nát lòng” của tình thân thuộc cố tri, như thánh Phaolô: “xiềng xích với gian nan đang chờ tôi”, như Chúa Giêsu: “này Thầy lên Giêrusalem để chịu nạn.”

10. Giàu hay nghèo Khen hay chê, Sang hay hèn, Không sao cả, chấp nhận tiến lên trên đường hy vọng hồng phúc và đợi ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Ðấng Cứu Chuộc chúng ta.

11. “Ta là sự thật.” Không phải báo chí là sự thật, không phải đài phát thanh là sự thật, không phải Ti vi là sự thật. Con theo loại sự thật nào?

12. Ði, đi, đi mãi, đi quyết liệt, đi không nhượng bộ cũng như không ai đi với người đi lui.

13. Không nhượng bộ cho xác thịt, Không nhượng bộ cho lười biếng, Không nhượng bộ cho ích kỷ… Con không thể gọi đen là trắng, xấu là tốt, gian là ngay được.

14. Ba phải? Ði đường nào được? Ba Chúa? Ba Hội Thánh? Ba luân lý? Ba lương tâm?

15. Không nhượng bộ, không phải là kiêu căng, tự ái hay ngoan cố. Không nhượng bộ là yêu thương quyết liệt lý tưởng của mình.

16. Nhượng bộ tiền của, chức tước, nhượng bộ mạng sống để giữ lý tưởng, danh dự, đức tin, con chấp nhận. Nhưng không bao giờ con chấp nhận đổi ngược lại: lỗ lã quá!

Bổn phận là giấy vào nước Trời

 

17. Bổn phận là ý Chúa trong giây phút hiện tại.

18. Có người không vác thánh giá của mình hay của người khác mà tưởng tượng thánh giá mình quá nặng. Có người vác thánh giá cả làng mà không vác thánh giá của mình. Có người vác thánh giá cả làng và gán thánh giá của mình bắt kẻ khác vác.

19. Thánh hoá bổn phận của con. Thánh hoá người khác nhờ bổn phận con. Thánh hoá chính mình con trong bổn phận.

20. Nếu ai cũng thánh hoá trong bổn phận thì tâm hồn mới, gia đình mới, thế giới mới.

21. Một vị thánh ngoài bổn phận là thánh ở xa xa, thường hay “làm phép lạ” sái nơi, sái giờ. Đến gần thì gây lộn xộn và hoang mang, khó sống.

22. Giáo dân nghĩ: thánh là sốt sắng kinh nguyện, giảng giải, xa lánh thế gian: họ hoá ra giáo sĩ, tu sĩ thời xưa. Tu sĩ nghĩ: thánh là dấn thân giúp việc xã hội, hoạt động chính trị, tranh đua với thế gian mà nhập thế. Loạn xà ngầu!

23. Thế giới không đổi mới, vì người ta quan niệm thánh thiện ngoài bổn phận.

24. Công nhân nên thánh ở xí nghiệp, bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện, học sinh nên thánh ở học đường, nông phu nên thánh ở ruộng rẫy, lính nên thánh trong quân đội, linh mục nên thánh trong mục vụ. Mỗi bước tiến là một bước hy sinh trong bổn phận.

25. Các thánh nên thánh không phải vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các Ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận.

26. Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng: là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn Chúa,
là tìm Nước Chúa, là tin ở tình yêu vô bờ của Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người, “ngay trong giây phút này”.

27. Bổn phận là giấy vào Nước Trời: Ai thực hiện ý Cha trên trời, sẽ vào Nước Trời.

28. Chấp nhận thánh ý Chúa, vâng theo thánh ý Chúa, ưng muốn thánh ý Chúa, yêu mến thánh ý Chúa. Con tiến đến bậc nào rồi?

29. Nếu Chúa để con chịu sỉ nhục vì bổn phận, chính lúc ấy Chúa muốn con được vinh hiển vì Thánh giá Chúa.

30. Con hãy thưa: “Lạy Chúa, bổn phận con là núi Calvariô và con là của lễ toàn thiêu”.

31. Chỉ cần làm bổn phận trong giây phút hiện tại là nên thánh. Một khám phá, một mặc khải đem bình an và phấn khởi cho tâm hồn con.

32. Chính sự chết cũng là một bổn phận cuối cùng mà con làm cách sẵn sàng và đầy yêu mến.

33. Tiến lên trong bổn phận mỗi ngày, con sẽ thấy “ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,30)

34. Vì thương thuyết đòi điều kiện trong bổn phận, vì không theo ý Chúa, vì theo ý Chúa có giới hạn mà tâm hồn con khắc khoải, bất an.

35. Không gắn bó với ý Chúa từng giây phút, con sẽ bỏ dở đường hy vọng, vì con cho bổn phận bình lặng, vô danh và đồng điệu quá!

36. Vấn đề rất đơn giản: trước khi hành động con nghĩ: “Chúa muốn con làm gì?” Hãy thực hiện ý Chúa!

37. Chúa muốn mưa, con cũng muốn,
Chúa muốn nắng, con cũng muốn,
Chúa muốn sướng, con cũng muốn,
Chúa muốn cực, con cũng muốn,
Chúa muốn vui, con cũng muốn,
Chúa muốn khổ, con cũng muốn,
Chúa và con chỉ có một ý.
Bí quyết hạnh phúc của con.

38. Trong cuộc sống hằng ngày, Chúa ban cho ta hạnh phúc tham dự mầu nhiệm cứu rỗi. Đối với mỗi người, con đường thánh giá đi theo con đường bổn phận.

Ai cũng khởi sự
Chỉ thánh mới đi đến cùng

 

39. Bạo dạn không phải là phiêu lưu, bất khôn. Muốn đi cùng đường Hy vọng con phải bạo dạn. Có mấy người đứng bên Chúa dưới thánh giá?

40. Bạo dạn để thưa với Chúa tất cả những gì con muốn, con nghĩ: “Cho đến nay các con không xin gì nhân danh Ta, hãy xin và các con sẽ được…” (Ga 16,24). Bạo dạn là tin yêu như con với cha.

41. Đừng nản lòng vì thất bại. Nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công. Chúa muốn vậy. Xem gương Chúa Giêsu trên thánh giá.

42. Kết quả và thành công khác nhau. Có thể không kết quả bên ngoài, nhưng thêm kinh nghiệm, thêm khiêm tốn, thêm tin Chúa, đó là thành công dưới mắt siêu nhiên.

43. Chỉ có một sự thất bại là không hy vọng vào Chúa: “Họ đã hy vọng vào Chúa và đã không phải hổ thẹn” (Tv 22,6).

44. Đường hy vọng dài thăm thẳm. Con đừng làm “Thánh lâm thời”: phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ.

45. Nhân đức toả hương thơm chứ không náo động.

46. Thành tín trên đường con đi. Phêrô không nộp Chúa, không cáo Chúa, nhưng Phêrô không được một lời bênh Chúa: “Tôi không biết người ấy” (Lc 22,57). Phêrô muốn yên thân, khỏi liên lụy: Phêrô bỏ Chúa dọc đường và tháo lui.

47. Con run sợ: vấp ngã, khó khăn, hiểu lầm, công kích, sỉ nhục, tử hình… Con quên Phúc âm sao? Chúa Giêsu đã chịu tất cả. Cứ theo Ngài con sẽ phục sinh.

48. Mỗi sáng thức dậy, con khởi sự lại cuộc đời, hăng say và lạc quan. Dù đường đi trục trặc, con cứ đi với Chúa, như về làng Emmau, con sẽ đến đích.

49. Bền đỗ là đặc tính của các thánh, vì “ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi” (Mt 10,22).

50. Dù mọi người bỏ dở hành trình, con cứ tiến. Quần chúng dễ bị lôi cuốn thì đông đảo, lãnh đạo sáng suốt lại hiếm hoi. Con phải có bản lãnh, đừng theo quần chúng mù quáng.

51. Giữ vững tinh thần của con, mặc dù cảm thấy rã rời, nguội lạnh. Mây mù sẽ qua đi, không che mãi được mặt trời. Chỉ đợi mây bay qua thôi.

52. Đừng nói “mất hứng rồi”. Con làm vì hứng sao? Việc Chúa đâu phải làm thơ. Hãy làm vì yêu mến và con biết không bao giờ “mất yêu mến Chúa” cả.

53. Người trộm lành đã hạnh phúc vì hy vọng ở tình yêu Chúa, Giuđa đã khốn nạn vì thất vọng (x. Mt 27,5; Lc 23,42-43).

54. Trong giờ phút chán nản nhất, thất vọng nhất của Chúa Giêsu: “Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài bỏ tôi!” (Mt 27,46), có Đức Mẹ đứng bên thánh giá. Mẹ thinh lặng nhưng tình thương Mẹ đã nâng đỡ Con cho đến lúc nói: “Đã hoàn tất” (Ga 19,30).

55. Con trai bà góa thành Naim chết được khiêng đi chôn, Lagiarô chết thối trong mồ, Chúa còn gọi trỗi dậy được. Con hãy hy vọng và khiêm tốn hối cải. Chúa sẽ cho con sống lại.

56. Mỗi ngày con phải bớt tự ái mà thêm bác ái. Mỗi ngày hãy bớt tự tín mà thêm tin Chúa.

57. Nếu con không quyết tâm bền chí, đừng nói “tôi hiền”, phải nói “tôi hèn”.

58. Con cứ than thở: Tôi mà được ở chỗ này, được cộng tác với người kia, được nắm chức vụ nọ, chắc tôi thành công rực rỡ. Làm việc Chúa giao cho, con ở nơi Chúa đặt con, con sẽ đi thẳng! Chạy lăng xăng không đến đích đâu!

59. Trong tâm hồn con, có hai người: Gioan và Giuđa. bao lâu con còn bền chí phấn đấu, là dấu con theo Gioan trung thành; giờ phút nào con hèn nhát đầu hàng, con chọn Giuđa làm quan thầy và thắp hương tôn thờ “quan thầy phản bội” ấy.

60. Con bảo: “Khó!”. Đúng vậy! Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quý, bỏ là quỷ.

Ðộng viên toàn lực theo tiếng Chúa

 

61. “Hãy theo Thầy”! Các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi?

62. Chọn lựa bao giờ cũng tiếc nuối, do dự, suy nghĩ, nhưng cuối cùng phải quyết định.

63. Chúa Giêsu rõ ràng quyết liệt: “Ai muốn theo Ta, hãy…” “Ai không… chẳng đáng làm môn đệ Ta.” Ðường lối sáng tỏ, tiếng gọi không úp mở.

64. “Hãy đi rao giảng Phúc Âm…”; để dám nhận một sứ mạng cao cả như thế, Chúa cần “cảm tử”. Hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh cho ta thấy giai đoạn nào cũng không thiếu cảm tử từ mọi tầng lớp giáo dân.

65. Có những người suốt đời chỉ nhờ thiên hạ quyết định giùm. Con có thuộc vào hạng đó không?

66. Con người muốn tháo lui vì có những sự trái ý, vì gặp những người không thể chịu nổi! Con theo Chúa hay theo mấy người ấy?

67. Con ngạc nhiên sao đủ hạng người tình nguyện làm “cảm tử” theo tiếng gọi của Chúa? Vì Chúa đã nói: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày đến tận thế.”

68. Người ngoài không hiểu được tại sao người ta theo tiếng gọi của Chúa, họ cho là ta điên. Chính Chúa Giêsu cũng bị Hêrôđê gọi là điên, và chúng ta hãnh diện được ở trong “nhà thương Biên Hòa” của Chúa.

69. Quyết định theo Chúa của con không phải chỉ là một chữ ký, không phải là một lời tuyên thệ thôi. Nhưng là một sự hiến dâng liên lỉ thực hiện trong cả cuộc sống.

70. “Theo Thầy mấy lâu nay, các con có thiếu gì không?” – “Thưa Thầy không.” Con bỏ tất cả, nhưng theo Chúa Quan phòng, con còn lo gì?

71. Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa, con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường Chúa. Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: “Ai cầm cày còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta.”

72. Tiếng gọi vẫn tiếp tục nhắc nhở con trong mọi việc nhỏ: “Hãy theo Thầy!” và tiếng “Vâng” của con cũng tiếp tục cho đến hơi thở cuối cùng.

73. Thưa: “Vâng” là dễ, nhưng hãy xem Chúa Giêsu theo tiếng gọi cho đến chết trên thánh giá. Hãy bỏ mình, vác thánh giá mỗi ngày và đóng đinh mình trên thánh giá ấy.

74. Chúa bảo con: “Hãy đi rao giảng Phúc Âm.” Chúa không ra thời khóa biểu, không vạch kế hoạch, Chúa để con sáng kiến và vượt đi, miễn là con mang Phúc Âm.

75. Công đồng Vatican II dạy ta “trở về nguồn”.Con hãy khám phá lại đời sống các tông đồ, những người đã sống, đã nghe, đã sờ tận tay Chúa Cứu Thế và làm chứng về Ngài.

76. Chương trình đang thực hiện tốt đẹp phải bỏ dở, hoạt động hăng say phải bó tay. Nhiệm vụ đang quan trọng phải hạ tầng công tác! Uất ức và chán nản! Chúa gọi con “hãy theo Thầy” hay “hãy theo việc nọ, người kia”? Ðể đó, Chúa sẽ liệu.

77. Con không tin ai, không trao công việc cho ai, không chịu nhường chỗ cho ai. Con toàn năng hơn Chúa nữa sao?

78. Tại sao con khư khư ôm lấy công việc nọ, công việc kia, không chịu buông ra khi thượng cấp thuyên chuyển? Việc đó của Chúa hơn là của con! Có Chúa lo.

79. Lúc con tự mãn về công việc tông đồ của con là lúc nguy hiểm nhất. Ma quỷ tập trung lực lượng để đánh úp con.

Ðời chiêm niệm được cụ thể hóa trong hành động

 

80. Hòa bình nhờ chiến thắng, chiến thắng nhờ tranh đấu. Con muốn bình an trong tâm hồn, phải tranh đấu liên lỉ.

81. Khí giới của con người là nguyện ngắm, hy sinh, các nhiệm tích, chuỗi Mân côi, tĩnh tâm… Ðồng minh của con là Ðức Mẹ, thánh Giuse, Thiên Thần, thánh bổn mạng, cha linh hướng. Con chắc chắn thắng trận, trừ khi con dần dần hạ khí giới và phản đồng minh của con.

82. Ðứng trên tầng lầu cao, nhìn xuống đường, con thấy làn sóng người cuồn cuộn chảy. Ðủ loại xe, đủ hạng người, dành nhau, tông nhau, đâm đầu chạy, vội vã hấp tấp, hốt hoảng, vì tình, vì tiền, vì tham vọng, vì đua sống. Chừng nào chúng ta lao mình vào việc Chúa, bất kể sống chết, đức tin ta mới sống, hồn tông đồ ta mới nóng.

83. Nếu mỗi năm con quyết tập một nhân đức, hàng ngày con rèn luyện một ít, đến nay con đã khá trọn lành.

84. Thủy thủ lặn đáy biển, phi hành gia bay trên phi thuyền đều dấn thân mạo hiểm, vì khoa học. Ngày nào con bỏ tất cả và bất cứ giây phút nào cũng sẵn sàng liều mình vì Chúa, người ta mới tin đời nội tâm con.

85. Con muốn đốt cháy cả thế giới bằng tình yêu truyền giáo, chinh phục cả năm châu. Mỗi giây phút của con phải là một tia lửa của nhiệm vụ, của tuân phục của nhẫn nại…, tia lửa sẽ bốc cháy sáng cả thế giới.

86. Thinh lặng bên ngoài, nhất là thinh lặng bên trong là bầu khí của cuộc sống nội tâm.

87. Tất cả mọi người không cần tài ba lỗi lạc mới nên thánh được, chỉ cần ơn Chúa và ý chí của con. Ít người làm thánh, vì học tập thành tài dễ hơn là thay đổi cả cuộc sống để nên thánh.

88. Con hăng say phụng sự Chúa rất tốt, nhưng lòng sốt sắng không đi đôi với sự canh tân tâm hồn thì không đẹp ý Chúa.

89. Thế gian sợ thinh lặng vì họ sẽ thấy mình trống rỗng cô đơn. Những người sống nội tâm quý sự thinh lặng, vì họ tìm thấy một thế giới mới mẻ tốt đẹp, trong cuộc sống thân mật với Chúa Ba Ngôi, mà thế gian không thể khám phá được.

90. Cứ mỗi năm con dốc lòng trừ một tính xấu, hằng ngày sửa một chút, ngày nay con đã bớt bao nhiêu khuyết điểm.

91. Con hỏi phải khởi sự sống nội tâm từ lúc nào? Phải khởi sự ngay từ bây giờ và phải khởi sự lại mỗi ngày.

92. Ai phải nên thánh? Tất cả mọi người, không có luật trừ. Khởi sự từ chính mình con, vì Chúa mời gọi tất cả.

93. Trên đời không gì quý bằng ơn Thánh. Ðã khởi sự thiên đàng trong lòng ngay từ trần gian.

94. Hạt kim cương óng ánh, đắt giá, quí báu, được cấu tạo từ ngàn vạn năm trong lòng đất, trong khối đá. Con có trưởng thành từ bên trong vậy không?

95. Hãy chạy khắp thế gian và la lớn tiếng với mọi người: “Có một người đã chết cho bạn.”

96. Trên màn ảnh, ngọn lửa phần phật làm mọi người kinh khiếp, nhưng không đốt nóng, không nấu chín; vì nó là lửa giả, không do một lò lửa hồng bốc lên.

97. Lòng mến Chúa phải tuyệt đối! Chúa dạy: “Không ai làm tôi hai chủ…” Con làm tôi mấy chủ?

98. Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội tâm tiến lên. Lâu nay con để dành mấy phút?

99. Người ta bảo: Khủng hoảng đức tin, khủng hoảng quyền bính; Cha nghĩ: Khủng hoảng thánh thiện. Chúa muốn thanh lọc để thấy rõ, đâu là thánh, đâu là quỷ!

100. Con không hiểu tại sao thánh Inhaxiô cầu nguyện: “Xin cho biết Chúa, cho con biết con!” Vì Chúa nói với Philipphê: “Philipphê, ở với Thầy lâu nay mà con chưa biết Thầy sao?” Nếu “biết” thật, đời con sẽ đổi hẳn…

101. Người giữ đạo đọc nhiều kinh, dự nhiều lễ, mà không sống đạo, chẳng khác gì người được hỏi: “Bạn sức khỏe không?” liền đáp: “Tôi ăn một ngày sáu bữa.” Chưa hẳn ăn nhiều bữa là đã khỏe.

Sống siêu nhiên, Sống thánh ý Chúa trăm phần trăm

 

102. Mọi người khen con mà Chúa chê con, khốn cho con. Mọi người nhục mạ con, vu cáo, ghê gớm con, nhưng Chúa khen con, thì hạnh phúc cho con vì nước Thiên đàng là của con.

103. Mọi người khen con mà Chúa chê con, được ích gì? Mọi người nhạo cười con, mà Chúa khen con, hạnh phúc cho con. Khi dân chúng kể: “Xin tha Baraba!” Baraba vẫn là kẻ trộm. Khi dân chúng la lối: “hãy đóng đinh nó!” Chúa Giêsu vẫn là con Thiên Chúa vô tội.

104. Trước những vô ơn phản bội, vu cáo, đau đớn nhất là những ác ý phi lý, do những nhân vật không thể ngờ được. Phản ứng của con là: – Tha thứ, thật lòng. – Kể cả xin họ tha thứ nếu họ không bằng lòng con. – Yêu thương cầu nguyện cho họ thức tỉnh. – Càng khỏi dựa vào sự an ủi thế gian.

105. Hãy vui mừng vì con thành công và hãy cám ơn Chúa vì có người khác thành công hơn con.

106. Sự điên dại trước mắt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Chúa.

107. Thánh giá là sự dại dột đối với người Do Thái, là sự vấp phạm đối với người Hy lạp. Nhưng phần chúng ta, chúng ta phải hãnh diện vì thánh giá Chúa.

108. Ở trong nhà thờ suốt ngày cũng chưa hẳn là nhân đức, nếu còn bắt lý lẽ, nếu còn phản ứng theo khôn ngoan thế gian, còn tự ái… Gioan và Giacôbê ở với Chúa luôn, nhưng Ngài phải hỏi: “Chúng con có tinh thần của ai?” (Lc 9,55).

109. Đừng nói tôi làm theo lương tâm. Còn lương tâm không mà theo?

110. Khó nghèo, vâng phục, hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn đều là dại trước mặt người đời, nhưng cao trọng trước mặt Chúa. Thế gian cho là xui, Chúa cho là phúc thật.

111. Hãy nhìn mọi sự với con mắt của Thiên Chúa, con sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác.

112. Trong tất cả vận động, đấu tranh, con hãy phân tích ra: có mấy phần trăm của Chúa? Mấy phần trăm tự ái? Của vụ lợi? Của ý riêng? – Sợ phần Chúa không còn bao nhiêu?

113. Phaolô trồng, Apôllô tưới, Thiên Chúa cho kết quả.

114. Nếu không có sự phục sinh thì người công giáo là hạng người vô phúc nhất trần gian.

115. Trong lúc con tuyên bố: “Vì Chúa, vì Hội Thánh”, con hãy thinh lặng trước mặt Chúa và thành thật hỏi Chúa: “Chúa thấy con hành động hoàn toàn vì Chúa không? Hay Chúa là lý do thứ yếu, còn lý do khác mạnh hơn, con không tiện nói”.

116. Tại sao tận hiến cho Chúa mà con còn so sánh mình với người đời, phàn nàn vì thua sút điều này, điều nọ. Con tiếc vì bị thiệt thòi khi làm tôi Chúa sao?

117. “Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải lụy phục chúng con” – “Các con chớ mừng vì ma quỷ phải lụy phục các con, một hãy mừng vì tên các con đã được ghi trên trời” (Lc 17-20).

Cầu nguyện, nghề của tôi

 

118. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con.

119. Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động.

120. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện, con nối liền, kết hiệp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.

121. Con tin vào hiệu năng của lời cầu nguyện không? Hãy suy lời Chúa: “Ta bảo các con: Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Có công ty bảo hiểm nào bảo đảm cho các con chắc chắn hơn lời ấy không?

122. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Ai không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin.

123. Con hãy cầu nguyện luôn, bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mt 26,41).

124. “Đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở giữa họ” (Mt 18,20). Lời Chúa Giêsu đã ứng nghiệm, đặc biệt nơi nhiều cộng đoàn cầu nguyện, họ sống xa linh mục từng ngàn cây số mà vẫn hướng dẫn nhau cầu nguyện, kiên trì giữa gian nan và cô đơn.

125. Con ngạc nhiên vì sao nhiều người mất ơn Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh? Trong bao nhiêu lý do, luôn luôn có một lý do chính: họ bỏ cầu nguyện từ lâu.

126. Đừng xem thường việc đọc kinh, các Tông đồ đã thưa: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1). Chúa Giêsu đáp: “Các con hãy cầu nguyện thế này: Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9). Chính Chúa Giêsu dạy đọc kinh.

127. Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: “Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi” (Mt 6,6). Tuy cần hình thức, nhưng chính yếu vẫn là tâm tình phụ tử.

128. Lời kinh Phụng vụ rất đẹp lòng Chúa, vì đó là lời Thánh kinh, là lời cầu của Hội Thánh, nhiệm thể Chúa Giêsu. Con hãy dùng sách lễ, sách ca vịnh, sách nguyện mà cầu nguyện.

129. Cha nói: “Thứ nhất cầu nguyện”, không phải là vô căn cớ. Chúa Giêsu bảo: “…Maria đã chọn phần tốt rồi, và sẽ không bị ai giựt mất!” (Lc 10,42). Khi ngồi dưới chân Chúa, nghe lời Chúa, yêu mến Chúa, Maria đã được Thánh Thể, Thánh Kinh, Thánh nguyện.

130. Con tìm bạn để an ủi, nâng đỡ con khỏi cô đơn. Sao con không tìm người bạn không bao giờ phản bội con, và có thể ở với con liên lỉ bất cứ nơi nào?

131. Một người “thánh” mà không cầu nguyện là thánh giả. Con đợi xem, họ sẽ sụp đổ không mấy hồi.

132. Muốn đánh giá công việc tông đồ của ai, con hãy xem người ấy cầu nguyện thế nào?

133. Nếu con không cầu nguyện, chẳng ai tin con làm việc vì Chúa đâu!

134. Tại sao có khủng hoảng trong Hội Thánh? Vì hạ giá việc cầu nguyện.

135. Ai hiểu được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn Cây dầu, cương quyết như Maisen giang tay trên núi, tha thiết như người trộm lành, khiêm tốn như người thu thuế.

136. Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ những lương thực thiêng liêng (x.Mt 4,4): Thánh Thể, Thánh kinh, Thánh nguyện. Nếu không, con không có sự sống thần linh.

137. Một người chưa vào đạo mà cầu nguyện là dấu rất tốt, khởi sự cầu nguyện là khởi sự có đức tin.

138. Tinh thần cầu nguyện giống như một lò lửa nung đốt tâm hồn tông đồ của con. Muốn nuôi ngọn lửa ấy, con hãy nhen vào đó những thanh gỗ lớn của hy sinh, của những cuộc tĩnh tâm và cả những que củi nhỏ của lời nguyện tắt và hy sinh thầm kín.

139. Dầu miệng con không nói ra, Chúa đã hiểu thấu lòng con. Con hãy xem gương người đàn bà băng huyết: động đến gấu áo Chúa, được nhận lời ngay.

140. Con tội lỗi không dám ra trước mặt Chúa, nhưng lời Hội thánh khiến con vững tâm: “Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”. Tất cả công nghiệp của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh không đủ bao bọc lời cầu nhỏ bé của con sao?

141. Con tưởng trẻ em chưa làm gì được, người bệnh không còn làm gì được cho Hội thánh sao? Không đâu, sau lời cầu chính thức của Hội thánh, lời nguyện của trẻ em và bệnh nhân rất đẹp lòng Chúa. Năng nhắc họ ý thức!

142. Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luân lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa.

143. Nhiều xứ không có linh mục đã giữ vững đức tin suốt nhiều chục năm, nhờ đọc kinh cầu nguyện trong các gia đình.

144. Lời cầu nguyện của con phải phổ cập, quả tim con phải chứa đựng cả thế gian, nhưng đừng vì đó mà quên những thực tế trong con và chung quanh con.

145. Sách thiêng liêng làm nhiều người nên thánh, đó là dầu nuôi lò lửa cầu nguyện.

146. Đặc biệt với tâm hồn toàn hiến, đáng lẽ trong lý lịch phải khai: “Nghề nghiệp: cầu nguyện”. Các nghề khác thế gian đều làm cả. Thế gian đòi hỏi con giữ đại lý cầu nguyện và nài xin con: “Cầu nguyện cho tôi”.

147. Không phải Maria ngồi yên dưới chân Chúa vì làm biếng. Phúc âm không phong thánh người làm biếng. Maria chọn phần nhất: nghe Chúa nói, để lời Chúa thấm tận tâm can, lay chuyển mình, làm việc trong mình. Có gì hoạt động bằng sự lột xác, sự biến đổi ấy? (x. Lc 10.42)

Hy sinh là dấu chứng của tình yêu

 

148. Hy sinh và nguyện ngắm đi đôi: Nếu con không hy sinh, con đừng phàn nàn vì nguyện ngắm nguội lạnh.

149. Con phải hy sinh nhiều, khi sống giữa những người khác chính kiến con, khác địa vị con, khác lý tưởng con. Hãy xem gương Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài sống giữa loài người tội lỗi, 33 năm hy sinh liên lỉ.

150. Gặp người làm khổ con, con có thể có hai thái độ: “Người này hại tôi!” – “Người này thánh hóa tôi”.

151. Thiên hạ nói: “Người này là mối họa cho tôi!” Con phải nói: “Người này là khí cụ Chúa dùng biến đổi tôi!”

152. Ai cũng kính trọng những người được in năm dấu thánh, nhưng ai cũng sợ Chúa in năm dấu thánh trên mình bằng hy sinh.

153. Con nghĩ rằng con không có gì để hy sinh cho Chúa, nhưng Chúa thấy con bỏ qua nhiều dịp: tươi cười với một người nói móc họng, thinh lặng trước một vu cáo bất công, yêu thương một người bạn phản bội, không nói một lời hóc búa trả đũa. Mỗi giây phút đều có dịp hy sinh.

154. Đừng hy sinh kiểu biệt phái, hãy hy sinh theo Phúc âm.

155. Người thực sự yêu thương, luôn luôn hy sinh mà không bao giờ kể công.

156. Con nói: “Tôi không có dịp hy sinh”; đó là dấu con chưa mến Chúa.

157. Không hy sinh, không có nhân đức thánh thiện. Ai chưa “bỏ mình vác thánh giá” thì chưa “theo Thầy” được. Đó là điều kiện tiên quyết.

158. Hy sinh con, đừng hy sinh kẻ khác!

159. Vì yêu thương, ta sẵn sàng hy sinh tất cả như Chúa Giêsu: “… để cho thế gian biết là Ta yêu mến Cha, và như Cha truyền dạy Ta sao, Ta làm như vậy. Đứng dậy! Ta đi khỏi đây!” (Ga 14,31).

160. Nếu con không hy sinh bên ngoài, không ai tin con hy sinh bên trong. Hy sinh giác quan rất quan hệ: Đavít đã sa ngã vì không giữ mắt.

161. “Đức Giêsu… đã yêu mến các kẻ thuộc về Ngài còn trong thế gian, thì Ngài đã yêu mến họ đến cùng” (Ga 13,1). Tận cùng ấy là Thánh gia. Hy sinh của con phải trọn vẹn, phải là lễ toàn thiêu, nếu “con yêu mến đến tận cùng!”.

162. Cái gì làm con xa Chúa, hãy hy sinh nó đi: Móc mắt, chặt tay, cưa chân… (x. Mt 5,29-30; 18,8-9).

163. Chúa thường gởi hy sinh đến những người Chúa yêu, nhưng hạng người được Chúa yêu ít lắm, vì không mấy ai chấp nhận hy sinh.

164. Không hy sinh nổi những việc nhỏ, con sẽ đầu hàng trước những hy sinh lớn hơn.

165. Để thúc đẩy con, mỗi lần hy sinh hãy định rõ một mục tiêu: cứu một linh hồn, dâng cho một bệnh nhân, cầu cho Hội thánh ở một địa phương đang gặp khó khăn.

166. Ai hăng hái trỗi dậy ban sáng, sẽ hăng hái suốt ngày. Phút thức dậy rất quan hệ.

167. Đừng nhát sợ! Hãy xem gương thánh Phaolô: đói khát, rách rưới, trộm cướp, roi đòn, đắm tàu, vu vạ, tù ngục, chết chóc… Nếu con sợ, đừng làm tông đồ.

168. Nếu biết chế ngự bằng hy sinh, hồn và xác con là hai người bạn đoàn kết và vô địch. Nếu không biết chế ngự: hồn và xác con là hai kẻ thù không bao giờ lìa nhau.

169. Người hy sinh biết rộng lượng trước khuyết điểm của người và nghiêm khắc trước khuyết điểm của mình.

170. Có những người hy sinh mà muốn mọi người biết mình hy sinh. Có những người không hy sinh mà muốn mọi người biết mình hy sinh. Có những người hy sinh luôn, mà không muốn ai biết mình hy sinh.

171. Trong một cuộc hành hương long trọng, hàng vạn người tham gia, ai cũng muốn vác thánh giá đi tiên phong. Nhưng trong cuộc hành hương của mỗi ngày, mấy ai sẵn lòng vác thánh giá của mình? Anh hùng thinh lặng khó lắm!

172. Thánh thiện và tội lỗi, lắm lúc chỉ do thắng bại của một phút hy sinh.

173. Kinh Tin Kính phải đánh động con, vì sự hy sinh của Chúa Giêsu: “Người đã nhập thể… và đã làm người. Người chịu đóng đinh… chịu tử hình, và mai táng…” Hy sinh trong cả cuộc sống, như của lễ toàn thiêu.

174. Con có thể hy sinh mạng sống, hy sinh cả cuộc đời, vì hy sinh chan chứa vào Chúa Giêsu: “Người sống lại như lời Thánh kinh, Người lên trời. Người sẽ trở lại trong vinh quang… Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.

175. Đừng nghĩ chỉ có mình con hy sinh. Hãy nhìn quanh con, từ những đứa bé bán báo kiếm tiền phụ giúp cha mẹ, đến những cụ già hy sinh tất cả để nuôi con, nuôi cháu… Con phải hổ thẹn, con hãy cảm phục. Có những người đói rách, nhưng dưới lớp áo tả tơi, có quả tim anh hùng.

Đừng để quả tim con già nua

 

176. Đừng dâng tim con cho Chúa, rồi tìm quả tim người khác thay vào. Chúa không muốn con chơi: “Trò ghép tim” ấy đâu.

177. Các thánh càng già thì quả tim họ càng tươi trẻ.

178. Đừng để tháng ngày làm cho quả tim con già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: tình yêu Chúa đổ vào quả tim con.

179. Ngần ngại gì? Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến lên. Cuối đường có Chúa đón chờ con.

180. Con thường nói: “Phải mà tôi đã dứt khoát từ đầu!” Mong con đừng còn phải nhắc lại lời hối tiếc muộn màng ấy.

181. Con cảm thấy quả tim con yếu đuối. Các thánh cũng như con. Nhưng nhờ vậy họ mới làm thánh: nhờ ơn Chúa và ý chí.

182. Con dâng cho Chúa một quả tim, trong đó đủ mọi thụ tạo chen nhau chiếm chỗ rồi con bảo Chúa nhận và giữ quả tim ấy sao?

183. Con đổi một quả tim nhàu nát, để lấy Thánh Tâm yêu thương Chúa sao được?

184. Con nói: “Đây là những tình bạn nâng đỡ tôi”. Hãy xem, nếu không tiến lên thì đó chỉ là gánh nặng đè bẹp con xuống thôi.

185. Con muốn mang quả tim con rao bán qua tay mọi người, khi đã chê chán rồi mới đem dâng cho Chúa! Chúa dại hơn con sao?

186. Chúa muốn tất cả lòng con, Chúa không chấp nhận chia sẻ với ai.

187. Bỏ tất cả, con sẽ được tất cả, sẽ cứu tất cả. Chúa Giêsu đã nói: “Và Ta, một khi Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta” (Ga 12,32).

188. Đừng nghĩ rằng bỏ mọi sự, quả tim con sẽ lạnh nhạt, đời con sẽ cô đơn, không thu hút được ai. Không! Con sẽ được ánh sáng và sức nóng của Thánh Tâm Chúa thay vào. Hãy xem sức mạnh của các thánh.

189. Các thánh bỏ mọi sự, nhưng các thánh đi đâu, thiên hạ theo đến đó: Xem gương Cha Piô, thánh Gioan Vianney…

190. Không chịu theo Chúa, nhưng con đành làm nô lệ, theo ý riêng của người nọ, người kia!

191. Quả tim và bổn phận, phải chọn bên nào? Hãy chọn bổn phận và thực hiện với tất cả quả tim.

192. Dùng tình yêu để làm tông đồ, một cớ rất hay! Nhưng hãy xét lại, bây giờ chỉ còn tình chứ không còn gờ – ram tông đồ nào nữa.

193. Bao nhiêu mối tình vớ vẩn vấn vương, bấy nhiêu vòng xích buộc con không bay lên cao được.

194. Không phải tổng số hoạt động là quan hệ, nhưng chính cao độ của tình yêu biến đổi hành động của con mới quan hệ.

Quyết mê một cuốn sách: PHÚC ÂM
Quyết theo một lý tưởng: CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU

 

195. Chúa ban cho con một Đức Giêsu, Chúa cũng ban tự do để con làm thành một đời thánh thiện, cao đẹp, hữu ích hay phá tán thành một cuộc sống cằn cỗi, phản bội, độc hại, đê hèn.

196. Người ích kỷ tránh trách nhiệm, tránh mệt nhọc, tránh hy sinh, họ muốn tạo hạnh phúc, tạo một “thiên đàng dành riêng” cho họ giữa trần gian, nhưng họ sẽ mất thiên đàng vĩnh viễn.

197. Người chí khí xem hiên hạ là anh em, nhìn công việc của thiên hạ như công việc của chính mình. Người ích kỷ xem thiên hạ là nấc thang để mình tiến lên, chỉ biết cái “tôi”, chỉ biết công việc “của tôi”.

198. Lợi dụng quần chúng để tiến thân, không phải là tư cách người lãnh đạo. Con sẽ xứng đáng là người lãnh đạo, nếu con không tránh quần chúng nhưng tìm đến với họ và liều thân cứu họ.

199. Đừng cho khiếp nhược là khôn ngoan. Chính vì nhiều con cái ánh sáng “khôn ngoan” kiểu đó, mà con cái tối tăm chiếm đoạt nhiều môi trường họ không dám mơ ước.

200. Người chí khí không tự mãn. Óc tự mãn như bức tường ngăn con xa Thiên Chúa, xa anh em, xa tất cả, và con không cần ai nữa.

201. Người chí khí không khoe khoang nhưng có tinh thần hy sinh như thẻ đường, hạt muối: chấp nhận tan biến để làm cho thức ăn có mùi vị ngon lành.

202. Người chí khí có tâm hồn ngay thẳng và cảm thấy đê nhục khi bươi móc việc kẻ khác hoặc sống quanh co.

203. Người chí khí không lăng xăng nhúng tay vào công việc mọi người. Phải nhận biết giới hạn của con.

204. Người chí khí biết thinh lặng, ăn nói bừa bãi, thiếu suy nghĩ, gieo rắc chia rẽ, thủ đoạn đó là khí cụ của ma quỷ để hạ đức bác ái.

205. Người chí khí không tọc mạch, dòm ngó việc người khác, nhưng đem tất cả ý chí để biết mình rõ ràng.

206. Tính chỉ trích phê bình là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên của con; chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ khác, con quấy rầy họ và nuôi dưỡng sự đắng cay trong lòng con.

207. Không bao giờ đem những thất bại, thử thách, đau khổ của con ra nói cách chua chát để chỉ trích người khác.

208. “Lờ đi”, đó là một từ trong tự điển của người hèn nhát, lười biếng, không muốn phấn đấu, những người tự nhận lấy thất bại trước rồi.

209. Đừng khiêm tốn lỗi thời. Phải có cao vọng: muốn biết, muốn hành động, muốn liều, nhưng vì Chúa, vì Hội thánh.

210. Đừng ham cãi vã sôi nổi, con sẽ ra mù quáng. Đam mê như mây mù, che khuất ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa.

211. Va chạm người khác là sự thường. Một xã hội không có va chạm chỉ có thể là thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà láng hơn, tròn hơn, sạch hơn, đẹp hơn.

212. Con đừng mang bệnh nhẹ tính, nhẹ dạ, nó làm chí khí chết mòn. Triệu chứng của nó là hay thay đổi ý kiến và hoạt động. Đời con đừng chồng chất một đống chương trình không bao giờ thực hiện.

213. Người nhẹ dạ là một bù nhìn, múa máy mà vô hiệu, vô ích. Chương trình của con, phải làm từ hôm nay, đừng để sang ngày mai.

214. Không có hành động nào mà không phải là “thánh giá”, nếu không vác nổi thánh giá thì chẳng làm được gì cả.

215. Những việc nhỏ đều quan hệ, con đừng khinh thường. Thắng mình liên lỉ trong các việc nhỏ, con luyện ý chí thành sắt đá và làm chủ bản thân con.

216. Điều cần nói, con hãy nói với “một giọng khác”, bác ái dịu dàng sẽ làm cho lý luận của con truyền cảm hơn, lôi cuốn hơn. Cùng một điều nhưng hai cách nói, do hai tâm hồn khác nhau và mang lại hai hiệu quả khác nhau.

217. Đừng đùng đùng quát mắng khi người khác có lỗi. Hãy nhẫn nại đợi chờ. Với lời lẽ dịu dàng và tất cả ý ngay lành, con đạt nhiều kết quả hơn là chửi mắng nhau từng giờ. Thành công cho bản thân con và chế ngự được tính tình con.

218. Ý chí cương quyết: việc phải làm cứ làm, không do dự, không e ngại… Bạo dạn và hy vọng, ơn Chúa và can đảm.

219. Trước trở ngại, con hãy đứng vững như một tên khổng lồ. Ơn Chúa không thiếu. Nếu con phải hạn chế hoạt động trong một thời gian, có can gì đâu! Việc con làm là việc của Chúa hơn là việc của con.

220. Thời giờ và sức lực là của Chúa, sao lại phí phạm chỉ vì những trở ngại dọc đường? Đại dương bao giờ cũng có sóng, thuyền cứ vững vàng lướt đi, không nghĩ gì đến sóng.

221. Bình tĩnh! Tại sao hốt hoảng tức tối? Thái độ ấy khiến Chúa bị xúc phạm, thiên hạ bực mình, rồi chính con cũng đau khổ… Có lợi ích gì đâu? Sau đó chỉ mình con hối tiếc và mệt nhọc thêm!

222. Đừng nói: “Tôi tự nhiên vậy, sửa sao được”. Không, đó là những khuyết điểm bất xứng với con. Con phải “nên người”, “nên con Chúa”.

223. Hãy quay lưng cho hạng tiểu nhân đang rỉ tai con: “Dại gì cho khổ cái đời!” Chúa Giêsu đã đuổi Phêrô: “Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi, không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).

224. Con phải tập “biết từ chối”, “biết nói không”.

225. Đừng nặng óc địa phương, hãy mở rộng lòng con, để mọi người có chỗ ở đó. Nếu không, con chỉ có tên, chứ chưa phải là người công giáo đích thực.

226. Chiếu sáng đời con bằng đức tin và đức ái. Đốt cháy thế gian với ngọn lửa Chúa đặt trong tim con.

227. Hãy làm thế nào để tư tưởng, ngôn ngữ, hành động con khiến người ta phải phản ứng: Con người này đã say mê một cuốn sách: PHÚC ÂM, đã bị lôi cuốn bởi một lý tưởng: “CUỘC ĐỜI CHÚA GIÊSU”.

228. Nghiêm trang và vững vàng, cử chỉ bên ngoài phải phản ảnh tâm hồn bên trong: tâm hồn bình an, tự chủ, không trẻ nít lúng túng hồi hộp.

229. Thân phụ Bernadette dẫn chị vào dòng và đặt điều kiện: “Đừng ép con tôi ăn phó mát, nó chết mất!” Suốt bảy năm, ngày ngày Bernadette chiến đấu ở bàn ăn: “Tôi phải ăn phó mát”, “Tôi không ăn phó mát được”, “Tôi phải ăn phó mát”. Cuối cùng chị ăn được, chị đã thắng, chị đã làm thánh.

Có Chúa đời đâu còn cô đơn

 

230. Con hãy năng đặt tay trên ngực và tự nhủ: “Chúa ở với tôi, trong tôi”. Dần dần Chúa sẽ cho con nếm hạnh phúc ấy.

231. “Chúa ở đâu?” – “Chúa ở trên trời”. Dạy trẻ em trả lời như vậy, là một thiếu sót. Muốn trả lời xác đáng, phải thêm: “Chúa ở trong con”. Gần gũi, sung sướng biết bao!

232. Từng ngàn bệnh nhân trong nhà thánh Cottôlengô có một nét đặc biệt trên khuôn mặt. Thỉnh thoảng máy vi âm lại dịu dàng nhắc: “Chúng ta đang ở bên Chúa!”

233. Nghe một hồi chuông, thấy một ngọn tháp, con hãy nhớ Chúa đang ở trong nhà tạm gần con. Lòng con sốt sắng, hướng đến thờ lạy yêu mến Chúa.

234. Chúa hiện diện thực sự, chứ không phải chỉ là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Ngài năn nỉ, khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương.

235. Chúa Giêsu là tất cả của con: là cùng đích các ý hướng, là lý do các quyết định, là động lực các tình cảm, là gương mẫu các hành động của con.

236. Sự hiện diện âu yếm và phấn khởi của bản thân, sự hiện diện dịu hiền và thắm thiết của người mẹ, sự hiện diện đầy tín nhiệm và tri ân của khách quý. Tất cả tình yêu, tất cả dịu dàng, tất cả vinh dự ấy sánh với sự hiện diện của Chúa bên con, còn xa vời hơn trời xa đất muôn ngàn lần.

237. Tại sao người Kitô hữu than van mình cô đơn? Chúa Kitô của họ ở đâu?

238. Lời chào của Thiên thần: “Vui lên! Hỡi người đầy ơn phúc! Chúa ở cùng người” (Lc 1,28) và lời chào của Hội thánh: “Chúa ở cùng anh chị em” có mang một ý nghĩa sâu xa, khả dĩ biến đổi cuộc đời con không?

239. Đối với Thiên Chúa, lương tâm đã đủ, nhưng đối với người đời, cần khôn ngoan vì mắt họ không nhìn thấu lương tâm con.

240. Hãy nhờ Đức Mẹ đưa con đến với Chúa Giêsu, con sẽ quen sống bên Chúa.

241. Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng là việc Chúa chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.

242. Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh, thiên đàng không gì khác hơn là Thiên Chúa hiện diện.

243. Điều khiến Chúa hiện diện trong con, vui lòng, sung sướng nhất, là con năng nói chuyện với Mẹ Maria, Mẹ yêu dấu của Chúa.

244. Chúa Ba Ngôi ở trong con, con trở nên đền thờ Chúa, con là của lễ toàn thiêu, là lời ngợi khen không ngừng, là đóa hoa muôn sắc dâng lên Chúa.

245. Tại sao ham xây đền thờ gỗ đá, mà quên xây dựng và tu bổ đền thờ tâm hồn?

246. Ở lầu son, gác tía, hay lều tranh vách đất con không lo, miễn là con luôn luôn làm cho nhà ấy đáng yêu, lúc ấy biến thành thiên đàng vì có Chúa.

Một toàn thể: HỘI THÁNH
Một lãnh tụ: ĐỨC THÁNH CHA
Một nguyện vọng: MỌI NGƯỜI NÊN MỘT

 

247. Mỗi khi ai tỏ ý lo sợ Ngài đau khổ, nhọc mệt, Đức Phaolô VI luôn luôn trả lời: “Vì Hội thánh! Vì Hội thánh!” Con hãy sống và trả lời như vậy.

248. Không ai phá Hội thánh vì yêu Hội thánh.

249. “Phêrô, con là Đá và trên Đá ấy, Ta sẽ xây Hội thánh của Ta, và cửa Hỏa ngục sẽ không thắng nổi” (Mt 16,18). Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công, ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng Hội thánh vẫn đứng vững vì “Hội thánh Chúa” không phải hội của loài người.

250. “Tôi tin có Hội thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Một niềm tin, một hạnh phúc, một quyết tâm!

251. Đừng ngạc nhiên khi người ta phá Hội thánh, vì đó là Nhiệm Thể Chúa Kitô. Họ muốn tiếp tục giết Chúa Kitô, nhưng không giết được Ngài nữa, bèn phá Hội thánh.

252. Nhiều người chê cách tổ chức của giáo triều La-mã. Tôi đồng ý rằng giáo triều La-mã không trọn lành, nhưng tôi xin họ xét xem chính nước họ có được tổ chức hoàn hảo hơn không? Hơn thế, còn phải phân biệt, giáo triều là một cơ quan, không phải là Hội thánh.

253. Yêu mến Hội thánh, vâng lời Hội thánh, trung thành với Hội thánh, cầu nguyện cho Hội thánh.

254. Có người hễ nghe nói đến Hội thánh là chỉ trích giáo triều ù lì, nhà thờ tốn tiền, nghi thức rườm rà… Hội thánh đâu phải giáo triều, nhà thờ, nghi thức. Hiểu như thế là sai lạc quá! Hội thánh là toàn thể dân Chúa đang tiến về Nước Trời.

255. Cần phân biệt vấn đề thần học lịch sử và vấn đề khả năng: Đức Giáo Hoàng không buộc phải là người có nhiều khả năng hơn cả, nhưng bất cứ ai là người Chúa chọn và trao quyền thì con vâng phục vì Chúa “giao chìa khoá Nước Trời” cho người ấy.

256. Sống đạo không phải chỉ để mưu tìm ơn cứu rỗi cho riêng mình. Sống đạo là hiệp nhất với toàn thể dân Chúa trên khắp thế giới, hiệp nhất với đầu là Đức Kitô, và đại diện cho Ngài là Đức Giáo Hoàng, để tiếp tục sự chết và sự phục sinh giải phóng nhân loại. Ở ngoài sự thông hiệp ấy, như cành nho đã lìa cây, chỉ còn là “công giáo” trong “hồ sơ lý lịch”.

257. Đừng nói Hội thánh đã canh tân rồi, phải nói Hội thánh liên lỉ canh tân.

258. Hội thánh được sinh ra trên thánh giá, Hội thánh lớn lên bằng tiếp tục sự thương khó Chúa Giêsu đến tận thế. Con lầm lạc, nếu tin vào tiền bạc, ngoại giao, quyền thế, vận động, con sẽ là nạn nhân trước hết! Khi con sáng mắt thì đã quá chậm.

259. Con bảo con không phản Hội thánh, nhưng con chống những người đại diện Hội thánh; con làm trò của biệt phái: họ không bao giờ chống Đức Giavê nhưng họ giết kẻ Ngài sai đến. Lý luận tinh vi!

260. Con công kích cơ cấu, tại sao chính con lại khư khư đòi tổ chức kiểu này, xếp đặt người nọ, lập các ủy ban, tiểu ban, văn phòng! Con giống nhóm người tuyên bố: “Đời này có bệnh viết tắt như ONU, UNESCO… Chúng tôi cực lực phản đối, và lập hội: Chống viết tắt tên là ASS (Association sans sigle)”. Mâu thuẫn!

261. Có thứ công giáo vụ lợi, có thứ công giáo lý lịch, có thứ công giáo xu thời, có thứ công giáo danh dự. Chúa chỉ chấp nhận hạng “công giáo trăm phần trăm”, “công giáo vô điều kiện”: “Họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài” (Lc 5,11).

262. Đối với Hội thánh, không ai tự nhiên cố ý phản bội để phản bội. Nhưng thường có ba trường hợp người ta lâm vào thế phản bội:
1. Khi kẹt vấn đề tiền tài, tình cảm.
2. Khi bất mãn vì tham vọng.
3. Khi sợ cực, sợ đau, sợ chết.

263. Hai ngàn năm nay, có những giai đoạn, những cá nhân trong hàng ngũ Tông đồ, Giáo Hoàng, Hồng Y, Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đã phản bội Hội thánh không thể tưởng tượng. Đức Phaolô VI gọi là tự hủy diệt. Nhưng mỗi lần như thế Hội thánh lại canh tân hơn, tươi sáng hơn, mãnh liệt hơn; Hội thánh tiếp tục mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh.

264. Hội thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội thánh có lời hứa của Chúa. Hội thánh là một phép lạ liên lỉ, tuy nhiên đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Cũng đừng vì đó mà tha hồ làm gương xấu, để Chúa làm phép lạ mỗi ngày.

265. Con hãy sẵn sàng hy sinh cho Hội thánh và hy sinh vì Hội thánh.

266. “Ai nghe các con là nghe Ta, và ai chối bỏ các con là chối bỏ Ta, mà ai chối bỏ Ta, là chối bỏ Đấng đã sai Ta” (Lc 10,16). Suốt đời con hãy ghi lòng tạc dạ: luôn luôn kính trọng người của Hội thánh, bí tích của Hội thánh, chỉ thị của Hội thánh, phụng vụ của Hội thánh, Chúa sẽ chúc lành cho con.

267. Trong Hội thánh mọi người được mời gọi và có bổn phận nên thánh. Nếu con không sống thánh thiện, con đừng lên mặt canh tân Hội thánh. “Không ai tuyên sấm bởi sức Thần khí Thiên Chúa lại đi nói: Giêsu, đồ chúc dữ! Và không ai có thể nói: Giêsu là Chúa! mà lại không phải bởi sức Thánh Thần” (1Cr 12,3).

268. Con tin Hội thánh vì chính Chúa Giêsu đã lập Hội thánh, và chỉ lập Hội thánh ấy thôi. Con đau khổ vì những bất toàn nơi bộ mặt nhân loại của Hội thánh, nhưng con liên đới với những bất toàn ấy để nỗ lực tẩy luyện và thực hiện ý Chúa Giêsu nơi Hội thánh.

269. Trước khi công kích, con hãy tìm hiểu các văn kiện, các thông điệp của các Giáo Hoàng. Con sẽ ngạc nhiên và khám phá ra các Ngài đã đề cập đến tất cả mọi vấn đề với những tư tưởng tuyệt hảo, cách mạng, với đường lối canh tân, bắt nguồn từ một tinh thần Kitô giáo rất tiến bộ, rút trong Thánh kinh, ơn Chúa và thời triệu. Nếu chúng ta chỉ thực hiện hai phần trăm, như Đức Piô XII nói, Hội thánh và thế giới đã biến đổi khác hẳn.

270. Hội thánh của giới trẻ, Hội thánh của giới già, Hội thánh của trí thức, Hội thánh của lao động, Hội thánh của người nghèo, Hội thánh của người giàu, Hội thánh của da vàng, Hội thánh của da đen, Hội thánh của phụ nữ, Hội thánh của nam giới, Hội thánh của tất cả, Hội thánh chấp nhận tất cả, Hội thánh không kỳ thị ai. Kỳ thị và chia rẽ không có chỗ trong Hội thánh.

Đốt sáng trần gian với ngọn lửa đức tin

 

271. Trên đường Hy vọng, con cần một địa bàn để chỉ đường cho con trong những lúc tăm tối gian nan nhất, đó là đức tin, địa bàn Hội thánh trao cho con ngày chịu phép Thánh tẩy.

272. Trước những lời hứa hẹn đường mật nhất, những hăm dọa kinh khủng nhất, con phải nói: “Tôi là con Chúa, con Hội thánh, là dòng dõi các Thánh, tôi theo đức tin dẫn đàng”.

273. Nắm vững đức tin, con phân biệt đâu là đường Hy vọng của tâm hồn tông đồ, đâu là lối chết của thế gian.

274. Nhiều người nói: “Tôi có đức tin, tôi có đức tin!” Có lẽ “đức tin của giấy khai sinh”, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin.

275. Xem hành động của con, phản ứng của con, đủ biết đức tin của con sống động hay là “đức tin nhãn hiệu”.

276. Chúa đặt điều kiện quá dễ: nếu ai có đức tin bằng hạt cải, khiến núi dời cũng được. Tại sao thế? Vì không phải ta làm, nhưng chính Chúa làm.

277. Không phải tin một Chúa xa xôi mơ hồ, nhưng tin như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16), như Gioan: “Ai không yêu mến thì đã không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8).

278. Hãy có một đức tin sắt đá, con sẽ làm được tất cả, vì mỗi lần làm phép lạ, Chúa hỏi: “Con có tin không? … Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi” (Lc 7,50).

279. Trong Phúc âm các Tông đồ đã khiêm tốn thuật lại đức tin yếu hèn của họ, để chúng ta mạnh tin hơn.

280. Con đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái và trung thành.

281. Có gì hạnh phúc bằng xác tín mình đang ở trong Hội thánh, nơi đó những khắc khoải của tinh thần được giải quyết và quả tim đầy tràn hy vong.

282. Hãy thành thực cầu xin như các Tông đồ: “Xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5).

283. Tin là chấp nhận Chúa Giêsu vô điều kiện và quyết tâm sống chết với Ngài.

284. Chúa toàn năng và hằng hữu, nếu con tin Chúa, con sẽ làm được những việc lạ lùng như Chúa Giêsu đã làm, và còn làm những việc vĩ đại hơn nữa. Chính Ngài đã hứa như vậy!

285. Con đừng giả vờ để thoát khó nguy. Con nhớ gương Êlêadarô: “Vào tuổi chúng ta đây, giả đò là điều chẳng xứng, kẻo làm thiếu niên nghĩ rằng, lão Êlêadarô 90 tuổi đầu đã quy hàng ngoại đạo, và họ bị lầm lạc vì tôi, bởi tôi đã giả tảng giả lờ, bởi tôi tham chút đời tàn vắn vỏi, mà chuốc lấy cho tuổi già vết nhọ, vết hoen.” (2Mcb 6,24-25).

286. Không ai bắt con chối Chúa, nhưng có thể bắt con đi ngược lại với đường lối của Chúa, lấy cớ “để giữ đức tin”. Thật là mâu thuẫn: Đức tin của con sẽ chết vì con sợ chết, sợ đau, sợ cực.

287. Con phải can đảm sống đức tin hằng ngày, như các thánh Tử đạo can đảm giữ đức tin.

288. Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng, Chúa không phải là Đấng bắt con phải kính mến, nhưng đúng hơn, Chúa là Đấng con phải để cho Ngài yêu thương con vô hạn.

289. Chúa của người công giáo cao cả không phải chỉ vì Ngài “toàn năng”, nhưng nhất là vì Ngài “toàn ái”. Ngài siêu việt vì Ngài là “Tình yêu tuyệt đối”.

290. Công cuộc cứu rỗi nhân loại không phải là một “tổ chức”, mà là một “mầu nhiệm”, mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu chết và sống lại.

Tông đồ là người
diễn lại cuộc đời Chúa Giêsu

 

291. Làm tông đồ là “làm như các thánh Tông đồ”. Nếu không nghiền ngẫm và thuộc lòng Tông đồ Công vụ, thì con không làm tông đồ đắc lực được.

292. Giáo dân thời sơ khai diễn tả cách nôm na: Tông đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa Kitô trên mắt, Chúa Kitô trong miệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc, Chúa Kitô trên vai… Tóm lại, là một người đầy tràn Chúa Kitô và trao ban Chúa Kitô cho kẻ khác.

293. Tông đồ là thánh hoá môi trường bằng môi trường: lao động là tông đồ của lao động, học sinh là tông đồ của học sinh.

294. “Ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu” (Mt 10,22). Một tông đồ sa đọa làm cả hỏa ngục vui mừng. Hãy cầu nguyện và nâng đỡ nhau.

295. Làm việc thiện chưa phải là tông đồ, làm vì xem đó là sứ mệnh Chúa Kitô mới là tông đồ.

296. Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới. “Ta sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20): Chúa Kitô vẫn ở với Hội thánh và tiếp tục ban cho Hội thánh lễ Hiện xuống mới.

297. Hăng say hết mình, nhưng biết chia sẻ với mọi người, biết cộng tác với kẻ thua mình. Đừng làm đại lý tất cả, như thể từ lúc con khởi sự hoạt động mới có trời đất muôn vật.

298. Có những điều con ao ước mà không thực hiện được, lắm lúc lại đẹp lòng Chúa và công nghiệp hơn tất cả kết quả mà con đắc chỉ.

299. Đừng thấy khó mà nản lòng. Hãy tự hỏi mình: “Việc của Chúa hay việc của tôi? Chúa làm hay tôi làm?”.

300. Trước khi phàn nàn người nọ người kia, hãy tự hỏi mình: “Muối của tôi còn mặn không? Đèn của tôi còn sáng không?”.

301. Cần chọn lọc nhưng đừng chỉ trích, bất tín nhiệm, khinh rẻ. Những tông đồ Chúa Giêsu chọn để xây dựng Hội thánh cũng đầy khuyết điểm. Ngài chỉ cần họ đơn sơ, chân thành theo Ngài.

302. Cái “tôi” của con càng bành trướng, việc tông đồ càng thất bại, cái “tôi” của con càng tan biến, việc tông đồ càng kết quả.

303. Sẵn sàng hy sinh những tiện nghi con thấy không hợp cho một tông đồ đích thực. Đừng tạo thêm những nhu cầu không cần thiết.

304. Đừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung với mình, khắt khe với người.

305. Ánh sáng tông đồ của con phải truyền sang những lớp tông đồ khác, cho đến lúc thế gian từ u tối tràn ngập hào quang. Làm tông đồ cho tông đồ.

306. Việc Chúa, không ai được giữ độc quyền đại lý. Các tông đồ thưa Chúa: “Thưa Thầy, chúng tôi đã thấy người kia lấy Danh Thầy trừ quỷ, nhưng hắn lại không theo chúng ta”.

307. Con ngạc nhiên hay bực tức vì các tông đồ khác không theo khuôn khổ như con. Phải hiệp nhất mà đa diện; thánh Phaolô đã nói: “Kẻ thì vì ghen tương và kình địch; kẻ thì vì thiện cảm mà rao giảng Đức Kitô… Can chi! …, miễn là Đức Kitô được rao truyền” (Pl 1,15,18).

308. Các thánh không ai giống ai, tinh tú trên trời không cái nào giống cái nào. Nhưng các thánh đều giống nhau một điểm: các Ngài diễn tả lại cuộc đời Chúa Giêsu.

309. Trong việc tông đồ, huấn luyện và lựa chọn chiến sĩ tâm huyết tối quan trọng. Một lãnh tụ lỗi lạc đã nói: “Nếu có ba trăm chiến sĩ, tôi sẽ cai trị đến chết”. Chúa Giêsu chọn mười hai người để tồn tại đến tận thế.

310. Không cần địa vị nào mới làm tông đồ được. Đừng thắc mắc địa vị con hay địa vị người khác; làm vì Chúa hay vì địa vị? “Chén của Ta, các ngươi sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Ta, Ta không có quyền ban, nhưng là dành cho những ai đã được Cha Ta dọn cho” (Mt 20,23).

311. Nay địa vị này, mai địa vị kia, người tông đồ không cảm thấy mất mát gì cả, chỉ biết một tiếng gọi: “… Đến không để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ và thí mạng sống mình…” (Mt 20,28). Ở đâu cũng có thể nên thánh.

312. Con buồn vì mất địa vị, vì không được “đặt đúng chỗ”. Con đi buôn sao mà buồn vì lỗ lã?

313. Lãnh nhận một trách nhiệm tông đồ là sẵn sàng chấp nhận chịu “tử đạo” bởi mọi người, ở mọi nơi, bằng mọi cách, với tất cả yêu thương và bền chí như Phêrô và Gioan: “Các Ngài bước ra khỏi công nghị hân hoan vì đã thấy mình xứng đáng được chịu sỉ nhục vì Danh Chúa” (Cv 5,41).

314. Kẻ thù nguy hiểm nhất của công việc tông đồ là kẻ “nội thù”, Giuđa nộp Chúa.

315. Kẻ thù khốc hại nhất của đời tông đồ con không phải là kẻ ngoại thù, đối lập con, nhưng là kẻ nội thù: chính bản thân con có thể thành tên gián điệp làm việc cho cả hai bên: Thiên Chúa và ma quỷ.

316. Tâm hồn tông đồ kính trọng thượng cấp, kể cả khi trình bày ngược lại chỉ thị, và không bao giờ vô lễ với thượng cấp trước mặt kẻ khác. Không thể tha thứ thái độ bất tuân, hai lòng.

317. Giọng tự mãn khiến mọi người lánh xa, không ai tin con làm tất cả thay Chúa Thánh Thần.

318. Vẫy vùng ngược xuôi, nhưng không có đức Ái, cũng vô ích, khác nào mua đèn ngũ sắc giăng cùng làng khắp xóm nhưng không có máy điện. Đêm đến tối om, cả làng mới vỡ lẽ đèn của con để trang trí chứ không soi sáng được.

319. Bị nhục mạ, bắt bớ, đuổi từ thành này sang thành khác, là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ thật. “Ta đã chọn các con từ giữa thế gian, bởi vậy mà thế gian ghét các con. Hãy nhớ lời Ta đã nói với các con: tôi tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Ta, họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ đã giữ lời Ta, họ cũng sẽ giữ lời các con” (Ga 15,19-20).

320. Việc tông đồ nhằm đưa người ta vào Hội thánh, không phải để lập những Hội thánh riêng của nhóm này, nhóm nọ, dòng này, dòng kia. Chưa rối đạo, nhưng rối việc đạo lắm!

321. “Tông đồ bằng đau khổ”, không giảng giải, không hoạt động, nhưng thinh lặng tế lễ cứu bao linh hồn. Chúa Giêsu hấp hối trên thánh giá, Đức Mẹ hấp hối trong tâm hồn dưới chân thánh giá.

322. a. “Tông đồ bằng hy sinh và thinh lặng”, như hạt lúa chôn vùi, mục nát đi để sinh muôn vàn hạt khác nuôi nhân loại.

b. “Tông đồ bằng chứng tích”.

Lời quả quyết suông không đáng người ta tin tưởng mấy, dù ngọt ngào trau chuốt đến đâu. Tang vật đáng tin hơn hình ảnh chụp được, tiếng nói ghi âm được càng dễ đánh động người ta hơn. Nhưng nếu chính con người sống động bằng xương bằng thịt, nếu cả cuộc sinh hoạt, nếu cả một lớp người, một lớp gia đình cùng sống một lý tưởng, thì chứng tích ấy có một sức mạnh thuyết phục lớn lao biết chừng nào!

323. “Tông đồ bằng tiếp xúc”: “Lòng chúng ta lại đã không cháy bừng bừng, lúc dọc đàng Ngài ngỏ lời với Ta, và giải thích Kinh Thánh cho Ta đó sao?” (Lc 24,32). Con không nghĩ rằng: mỗi cuộc tiếp xúc là một công tác tông đồ sao?

324. “Tông đồ bằng tư tưởng”: nâng đỡ một người bạn đang gặp khủng hoảng, mở chân trời cho bạn thấy khả năng và ơn gọi cách sáng tỏ, đem hy vọng cho một cuộc đời sắp tan vỡ. Báo chí sẽ bớt đăng những tin uống thuốc ngủ, độc dược… nếu có những người như con.

325. “Tông đồ bằng bữa ăn”. Bữa ăn là chuyện thường tình, nhưng bữa Chúa ăn ở nhà Mađalêna, ở nhà Simon, Giakêu khác xa chúng ta: “Hôm nay ơn cưú rỗi đã đến cho nhà này!” (Lc 19,9).

326. Con nghĩ “thư từ” không phải là việc tông đồ sao? Phaolô ngồi trong tù ngục, không máy in, vẫn viết thư cho một giáo đoàn, giáo đoàn ấy chép lại rồi chuyền sang cho một giáo đoàn khác. Cứ thế, Phaolô đã giữ vững và phát triển đức tin của Hội thánh sơ khai. Con hãy để tất cả lòng yêu thương con vào phong bì rồi dán lại, gửi đi.

327. “Phụ nữ” làm tông đồ rất đắc lực, như bà Maria, bà Salomê theo giúp Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng nhắc đến nhiều phụ nữ tông đồ: “Xin gởi lời chào Tryphêna và Tryphôsa, các bà đã nhiều công lao nhọc trong Chúa” (Rm 16,12).

328. Từ xưa, “thiếu nhi” đã là tông đồ đầy dũng cảm: Tarcisiô đã mang Chúa đến cho bao nhiêu người. Hãy nhớ lời Chúa: “Đừng khinh dễ trẻ con”.

329. Đâu phải đợi đến ngày nay có vài bà tranh đấu, phụ nữ mới có chỗ đứng trong Hội thánh. Các thánh Tông đồ đã tin dùng, sao ngày nay lại không tiếp tục? Thánh Phaolô viết: “Tôi xin gởi gắm với anh em, chị Phêbê của chúng tôi, nữ tá viên của Hội thánh Kenkrê, mong anh em tiếp đón chị trong Chúa… Xin gởi lời chào Prisca và Aquila, những người cộng sự của tôi trong Đức Giêsu Kitô. Họ đã liều mất đầu để cứu mạng tôi” (Rm 16,1-4).

330. Con đừng do dự về con và về người khác: chài lưới như Phêrô, thu thuế như Matthêu đều làm tông đồ được. “Hãy theo Ta, và Ta sẽ cho các ngươi nên ngư phủ chài lưới người” (Mt 4,19). Con làm không được nhưng Chúa làm được.

331. Quả tim con phải rộng đủ để chứa đựng và rung nhịp với tất cả chương trình Phúc âm hoá của Hội thánh.

332. Xưa ở đâu có tiêu sọ, có mỏ vàng, thiên hạ liều sống liều chết đến đó. Ngày nay ở đâu có dầu hoả, có sắt, đồng, phốt phát, uranium… các nước giết nhau mà đến. Còn ở đâu “chỉ có linh hồn người ta”, không ai thèm đến.

333. Nếu con bảo “giáo dân có ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần”, có người sẽ cho rằng con nhạo báng họ! Nếu con bảo “giáo dân là tư tế, tiên tri, vương đế”, có người sẽ cho con là thệ phản! Có mấy giáo dân ý thức được Chúa gọi, Chúa cần họ? Hãnh diện và tri ân vì được làm con Chúa nhờ phép Thánh tẩy? Làm chiến sĩ, chứng nhân nhờ phép Thêm sức?

334. Thời đại giáo dân – Bao lâu chưa động viên được toàn lực dân Chúa ý thức và hành động, các tầng lớp xã hội này chưa thể thấm nhuần Phúc âm được.

335. Bí quyết của công cuộc tông đồ trong thời đại ta: Tông đồ giáo dân!

336. Không có linh mục nào không xuất thân từ chủng viện, không có tông đồ giáo dân nào không xuất thân từ các khoá huấn luyện, con hãy xác tín điều đó.

337. Nếu mỗi giáo xứ, con huấn luyện được năm chiến sĩ đích thực thôi, những người đến sau con, sẽ sử dụng, hợp tác với họ, quyết sinh quyết tử suốt ba bốn chục năm. Bao nhiêu tiềm lực chúng ta quên khám phá, khai thác trong Nước Chúa!

338. Đừng ham đại chúng, đừng vụ số đông, hãy xác tín vấn đề cán bộ: quần chúng lộn xộn rời rạc, chỉ cần một cán bộ đủ khuấy động, đủ khơi dậy cả quần chúng. Cán bộ là hồn, là bộ óc, là xương sống của quần chúng.

339. Hãy nghiên cứu các tu hội đời: thời đại mới, giải pháp mới. Đó là đặc sủng của thời đại ta, sẽ làm thăng tiến đời sống thiêng liêng của bao nhiêu giáo dân. Các Đức Giáo Hoàng đã nhận thấy dấu hiệu của thời đại trước chúng ta những mấy chục năm.

340. Đường lối tông đồ của thời đại ta:
– Ở giữa trần gian,
– Không do trần gian,
– Nhưng do trần gian,
– Với phương tiện của trần gian.

341. Là chi thể của Nhiệm thể, chúng ta là óc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ, đòi hỏi, là vai để gánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đến với người khổ đau, là quả tim để khắc khoải yêu thương, là miệng để nói những lời bác ái ủi an. Nhờ tông đồ mà Hội thánh hiện diện giữa thế giới ngày nay.

342. Người ta không để ý đến sự hiện diện khiêm tốn và hoạt động thầm lặng của tông đồ. Nhưng sự vắng mặt của tông đồ làm cho người ta thấy ngay môi trường trống rỗng và chết lạnh. Không ai chú ý và quý trọng muối biển, ánh sáng, khí trời, nhưng thiếu chúng, vũ trụ chết ngay. Không ai để ý quả đất đang hoạt động, xoay vần, nhưng nếu nó dừng lại chúng ta cũng bị tiêu diệt.

Phải có đời đời để dọn mình,
phải có đời đời để tạ ơn
vì dâng một Thánh lễ

 

343. Thánh lễ làm nên Kitô hữu, Kitô hữu làm nên thánh lễ. Thánh Thể làm nên Hội thánh, Hội thánh làm nên Thánh Thể.

344. Người ngoài lấy làm lạ: “Ngày nào ông linh mục cũng làm một chuyện, sao người công giáo kéo nhau đi mãi?”. Họ nói có phần đúng; ở đâu, ai làm, cũng vẫn là một lễ hy sinh trên núi Calvariô tiếp tục, nhưng có một sức lạ lôi cuốn họ, không phải linh mục mà chính Chúa Giêsu tế lễ.

345. Có người chủ trương khi nào sốt sắng mới dự lễ, như vậy mới chân thành với Chúa. Không, đó là dự lễ tùy hứng, vì sảng khoái của con.

346. Biết giá trị của Thánh lễ, dù xa dù khó con cũng cố gắng tham dự. Càng hy sinh, con càng thấy mến Chúa hơn.

347. Xưa nay có ai thấy người nào dự lễ mà lại nghèo cực hơn kẻ khác vì mất giờ không?

348. Cùng dự Thánh lễ, nhưng tâm tình khác xa nhau. Con hãy phân tích những hạng người quanh chân Thánh giá.

349. Con muốn hỏi: “Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?” Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá.

350. Người thánh là người tiếp tục sống Thánh lễ suốt ngày.

351. Tán dóc mấy giờ cũng được, ăn nhậu càng lâu càng khoái, cờ bạc thâu đêm không chán, tại sao vội vã lúc dự lễ?

352. “Nhà tạm tốt đẹp nhất, hào quang sáng chói nhất, chân đèn rực rỡ nhất, thánh đường uy nghi nhất, là LINH MỤC. Đặt một linh mục nguội lạnh ở vương cung thánh đường, không ai thèm gặp. Đặt một linh mục thánh thiện trong một nguyện đường nghèo nàn, hẻo lánh, ai cũng tìm đến” (Cha Chevrier).

353. Gia đình thánh thiện là gia đình yêu quý Thánh lễ.

354. “Phải có đời đời để dọn mình, phải có đời đời để tạ ơn, vì dâng một Thánh lễ” (Thánh Vianney).

355. Linh mục cùng tế lễ với Chúa Giêsu, cùng trao mình với Chúa Giêsu, làm của ăn cho mọi người, bất cứ lúc nào, trao tất cả!

356. Cả cuộc đời Chúa Giêsu hướng về núi Calvariô, cả cuộc đời con hướng về Thánh lễ.

357. Mỗi lần dâng Thánh lễ là mỗi lần con giang tay chịu đóng đinh lại trên Thánh giá, và cùng uống cạn chén đắng với Chúa. Đây không có chỗ cho khán giả.

358. Tôi thích danh từ nôm na: “Làm Lễ”, tất cả hiệp nhất trong Chúa Kitô “Làm Lễ liên lỉ”.

359. Con muốn tôn vinh Chúa?
Con muốn cảm tạ Chúa?
Con muốn cầu xin Chúa?
Con muốn yêu mến Chúa?
Con muốn cứu nhân loại?
HÃY DÂNG THÁNH LỄ!
Chúa Giêsu đã làm như vậy!

360. Đèn không sáng, nếu hết dầu; xe không chạy, nếu cạn xăng; hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến với Thánh Thể: “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi không có sự sống nơi mình các ngươi” (Ga 6,53).

361. Mặt trời sáng và tung toả ánh sáng. Thánh Thể là sự sống và nguồn phát xuất sự sống thần linh cho nhân loại, sự hoà hợp cho các dân tộc: “Bánh Ta sẽ ban ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian” (Ga 6,51).

362. Thánh Thể làm cho Ta hiệp nhất trong Nhiệm Thể. Dâng Lễ mà không yêu thương là mâu thuẫn, quái gở.

363. Dù thiếu tất cả, dù mất tất cả, nhưng còn Thánh Thể là còn tất cả vì con có Chúa thiên đàng dưới đất.

364. Dù cô đơn nơi đèo heo hút gió, dù tăm tối trong ngục tù, con hãy hướng về các bàn thờ trên thế giới, nơi Chúa Giêsu đang tế lễ, con dâng Lễ và rước Lễ thiêng liêng. An ủi và can đảm sẽ tràn ngập lòng con.

365. Được dâng Thánh lễ, được rước Thánh Thể là một đề tài bất tận để suy ngắm, sao con kêu nguội lạnh?

366. Người “công giáo Chúa nhật” không đủ sức để cải tạo thế giới vật chất ngày nay. Sống Thánh lễ là bí quyết để đem Chúa cho thế giới và đưa thế giới đến với Chúa.

367. Chúa Giêsu đã làm cách mạng trên Thánh giá. Cuộc cách mạng của con phải bắt nguồn từ bàn thánh. Tiếp tục cuộc cách mạng của Chúa, con sẽ làm nên một nhân loại mới.

368. Giọt nước hoà vào rượu thế nào, đời con tan biến trong Chúa Giêsu như vậy.

369. Cả cuộc sống con phải loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại.

370. Chúa Giêsu là đầu, Ngài chỉ tế lễ với Nhiệm thể là Hội thánh của Ngài: “Cùng với Đức Giáo Hoàng… và Đức Giám mục…” Thiếu sự thông hiệp ấy, dâng lễ không có ý nghĩa, nghịch lương tâm.

371. Thánh lễ cho con nhìn thấy và sống với Hội thánh: con nghe lời Chúa Cứu Thế, các Tiên Tri và Tông đồ, con hiệp với Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục, hàng Giáo phẩm, giáo sĩ, tu sĩ, toàn thể dân Chúa, các thánh, các linh hồn, quanh Đức Maria, nhờ Chúa Giêsu, dâng mọi chúc tụng và vinh quang lên Chúa Ba Ngôi, đợi ngày hồng phúc Chúa trở lại. Hạnh phúc, tin tưởng biết chừng nào?

372. Đời con là một Thánh lễ: Lúc sám hối đọc kinh “Thú tội”, khi hân hoan hát kinh “Vinh danh”, hồi vui mừng hát “Alleluia”, nhưng con không ngừng:

“Dâng lên Chúa”
“Anh chị em hãy cầu nguyện”
“Tin kính một Thiên Chúa là Cha”
“Hiệp nhất cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần”
“Thông hiệp cùng Hội thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu”.

373. Muốn tin, phải nuôi mình bằng Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa đựng “Mầu nhiệm đức tin”, và ban sức mạnh đức tin cho con.

374. Chủng sinh phải được chăm sóc để lớn lên như hạt lúa chín vàng, sẵn sàng chịu nghiền tán thành bột, hầu trở nên chiếc bánh thơm làm của ăn nuôi dân Chúa.

375. Ngày nào cũng lễ trọng, ngày nào cũng lễ hát, mỗi lễ mỗi trọng hơn, sốt mến hơn, cho đến lễ cuối cùng.

376. Mỗi khi trao Chúa Giêsu Thánh Thể cho giáo dân, con hãy ý thức trao cả đời con, thời giờ, sức khoẻ, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người không phân biệt ai.

377. Hằng ngày cùng với Chúa Giêsu, con dâng hiến mình, sẵn sàng từng giây phút, để “bị nộp” vì anh em con, để “đổ máu ra vì nhiều người để nên ơn tha tội” (Mt 26,28).

378. Lúc đọc, hay nghe đọc lời truyền phép mỗi ngày, với tất cả tâm hồn, con làm lại:
Một giao ước mới,
Một giao ước vĩnh cửu,
Giữa Chúa Giêsu với con,
Bằng máu con hòa trong Máu Chúa.

379. Thánh Thể mặc khải Mầu nhiệm Nước Trời sẽ đến sau này và sáp nhập dân Chúa vào Mầu nhiệm ấy. Thời đại ta, đức tin dựa vào Mầu nhiệm Nước Trời. Đức tin không thể tồn tại nơi người Công giáo sống ngoài Thánh Thể.

380. Như Chúa Giêsu suốt đời “rất ước mong ăn Lễ Vượt qua” (Lc 22,15), đời con chỉ có một mong ước: Thánh lễ, trọng tâm thu hút và điều khiển tất cả tâm trí và hành động của con.

381. Trắng, vàng, xanh, đỏ, tím, đen; sắc phục tuy thay đổi nhưng Thánh lễ vẫn là một. Con sống nhiều biến cố: hân hoan, hy vọng, tử đạo, tang sầu, nhưng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, con cũng hiến dâng “nhờ Người, với Người và trong Người”.

382. Thường ngày với bộ tu phục, hình ảnh thiên thần bác ái nơi con, nói lên sự hiện diện của Chúa. Nhưng khi con đi qua, cũng như bao người khác, với bộ áo như mọi người, không đồng phục, không huy hiệu làm sao con rao giảng, con làm chứng Chúa? Con đừng lo, dù có cải trang cách mấy, người ta sẽ nhận ra con là môn đệ Chúa, nếu con yêu thương anh em. Ngược lại, nếu con không yêu thương thực sự, nếu con có hậu ý đen tối, dù có khoác mấy lớp tu phục, dù có phân trần khéo léo, họ vẫn hoài nghi.

383. Chúa nói: “Đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở giữa họ” (Mt 18,20), “Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20), “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (1Cr 11,24). Con hãy sung sướng: Chúa không đặt điều kiện vật chất nào cả, chỉ có đầu óc loài người chật hẹp. Tránh hai cực đoan: lo không có nơi cho Chúa ở, công kích việc xây cất nhà thờ.

384. Lúc người ta không còn kính trọng giáo sĩ, tu sĩ, khi vì ơn gọi dâng hiến mà đời con vất vả hơn, thiếu thốn hơn, hãy vui mừng vì chưa bao giờ con thấy ơn thiên triệu, sứ mạng của con cao cả, tốt đẹp và trong sáng như vậy, chưa bao giờ hình ảnh Chúa nơi con sáng tỏ như vậy. Hãy tin tưởng vì khi nào con bị treo lên thánh giá với Chúa, con sẽ kéo mọi sự lên theo.

385. Đừng nghĩ rằng đời dâng hiến của con không còn ý nghĩa, vì không sống cộng đoàn, không làm việc bác ái, giáo dục, từ thiện được nữa. Sao lại không ý nghĩa? Trên thánh giá, Chúa đã làm gì? Trong Nhà tạm Chúa đang làm gì? – Hiện diện, cầu nguyện, hy sinh. Chính lúc ấy, Chúa cứu chuộc nhân loại.

386. Nếu con không được sử dụng các phương tiện để trao Chúa cho trần gian như báo chí, học đường, phát thanh, truyền hình, diễn đàn, nhà thờ khang trang, con đừng phàn nàn. Khi Chúa cất tất cả, thì con cứ tin rằng không có gì cần thiết cả. Bất cứ đâu, con có thể noi gương Đức Mẹ làm cho Chúa hiện diện được. Hãy nhớ Mẹ Maria!

387. Hội thánh dạy cử hành nghi thức khấn dòng trong Thánh lễ để con ý thức và thực sự hiến dâng đời con làm hy lễ toàn thiêu với Chúa Giêsu trên bàn thánh. Trong mỗi Thánh lễ, con hãy tuyên thệ lại lời khấn, với tất cả tâm hồn, với tất cả ý nghĩa của “một tân ước vĩnh cửu”.

388. Có thể triệt hạ tất cả thánh đường trên mặt đất, nhưng bất cứ ở đâu còn linh mục thì còn Thánh lễ, còn Thánh Thể. Có thể tiêu diệt tất cả các linh mục, nhưng đâu có hai hay ba người hiệp nhau vì danh Chúa, thì vẫn có Chúa ở giữa họ.

Nói vâng cách vui vẻ
là dấu chỉ một tâm hồn thánh thiện


389. Con khấn vâng phục thượng cấp hay khấn “thượng cấp vâng phục con”?

390. Người nhu nhược để ý chí lăng loàn như anh nài không chế ngự được voi. Người vâng lời khắc phục được ý chí như người làm xiếc điều khiển mãnh hổ.

391. Một đạo binh kỷ luật là một đạo binh hùng mạnh. Một tông đồ vâng phục là một tông đồ anh dũng.

392. Xem một tâm hồn vui vẻ và nhanh chóng vâng phục chừng nào, con đoán được tâm hồn đó thánh thiện chừng ấy.

393. Thế gian bảo con vâng phục như vậy là “điên khùng”, Chúa nói con vâng phục vì Chúa là “anh hùng”.

394. Luxiphe đã nổi loạn và liên lỉ xúi giục khởi nghĩa đó đây trong Hội thánh. Khẩu hiệu của nó là: “Bất tuân phục”.

395. Chúa Cứu Thế đã làm cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu của Ngài: “Vâng lời đến chết” (Pl 2,8).

396. Sáng kiến, tìm hiểu, trình bày, lắng nghe, nhận chỉ thị, thi hành sáng suốt.

397. Có người phục mà không vâng, có người vâng mà không phục, có người vâng và phục vì thượng cấp “đúng điệu” với mình, có người vâng và phục vì Chúa.

398. Thượng cấp bảo con làm một việc khó, con cứ cố gắng và tin tưởng. Có việc gì khó bằng chinh phục thế giới với hai bàn tay trắng? Các tông đồ đã vâng lời và đã thành công. Hãy xem phép lạ ấy đang tiếp tục mỗi ngày mà vững tin.

399. Đừng đòi buộc thượng cấp gương mẫu cũng như đừng đòi buộc Bác sĩ phải mạnh khỏe, đó là thiện cảm cá nhân, không phải nhân đức vâng phục.

400. Không vâng lời, dù có thực hiện những công trình vĩ đại cũng không đẹp lòng Chúa. Chúa chỉ quý lòng con, Chúa không cần công trình của con. Chúa tạo dựng cả vũ trụ không cần con.

401. Hội thánh ở giữa xã hội trần gian cũng cần có hệ thống tổ chức nhân loại. Một hành vi bất tuân cũng tổn thương đến sinh hoạt chung, như trong thể xác, một tế bào, một huyết quản trục trặc cũng làm cho cả cơ thể đau đớn.

402. Trinh khiết là chết cho nhục dục; vâng phục là chết cho ý riêng.

403. Thi hành chỉ thị mà vùng vẫy là kiêu ngạo, không phải vâng phục.

404. Hãy biết hoài nghi chính mình con, biết bàn hỏi với người có kinh nghiệm, biết tin tay Chúa sắp đặt qua nhiều người, nhiều hoàn cảnh.

405. Vâng phục trong thinh lặng, sự thật sẽ giải thoát con. Thinh lặng năm năm, mười năm, cả đời con, thinh lặng trong sự chết… Chúa biết con đủ rồi, và ngày tận thế nhân loại cũng sẽ biết.

406. “Vâng lời trọng hơn của lễ” vì của lễ là hoa quả, hương trầm, súc vật, tiền bạc… tượng trưng cho con, nhưng chưa động đến con. Khi vâng lời con lấy chính mình con làm của lễ, giết chết ý riêng con, tự ái của con làm của lễ toàn thiêu.

Chúa là gia nghiệp chưa đủ cho con sao?


407. Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó lên đầu; của cải làm bệ chân con, nếu con đứng trên nó.

408. “Nghèo trong nơi con ở, nghèo trong áo con mặc, nghèo trong đồ con ăn, nghèo trong đồ con dùng, nghèo trong việc con làm” (Cha Chevrier).

409. Người ít đòi hỏi là người sung sướng, vì thấy mình đầy đủ; người nhiều đòi hỏi là người khổ cực, vì cứ thấy mình thiếu thốn mãi.

410. Nhìn vào con, con thấy thiếu, con cực số một. Nhìn vào anh em con, con thấy bao nhiêu người khốn cực hơn con.

411. Không có của mà tham vẫn chưa phải là thanh bần, có của mà không dính bén cũng có thể “có lòng khó khăn” thực sự.

412. Đừng rộng rãi với của người, đừng keo kiệt với của mình, đừng phung phí với của chung.

413. Nghèo hèn, nghèo khó, nghèo khổ, nghèo cực, đó là những hậu quả của nghèo nàn giữa xã hội. Trong khi nỗ lực thăng tiến con người và xã hội, con có sẵn sàng chấp nhận những hậu quả ấy xảy đến nơi con vì lòng mến Chúa và anh em không?

414. Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Vì không phải của con, chính là của Chúa trao cho con sử dụng.

415. Thinh lặng nhường chỗ tiện nghi hơn, công việc lợi lộc hơn cho kẻ khác, đó là dấu thanh bần chân thành.

416. Con là quản lý của Chúa; Ngài giao nhiều, con giữ nhiều, giao ít, con giữ ít, Ngài thu lại, con bằng lòng, nhưng con chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về của cải Ngài giao.

417. Thanh bần ghen ghét, thanh bần chỉ trích, thanh bần uất hận, không phải là thanh bần Phúc âm.

418. Thế gian không thấy con vâng phục, thế gian không biết con trinh khiết, nhưng thế gian dễ nhận ra con là chứng nhân thanh bần.

419. “Xin Chúa cho con được khó nghèo như Chúa”, thường con hay cầu xin ngược lại!

420. “Hội thánh của người nghèo”, không phải để làm cho dân chúng nghèo mãi nhưng nỗ lực thăng tiến cuộc đời của dân chúng về mọi phương diện.

421. Có như không có, bán như không bán, mua như không mua, như không có gì cả, mà làm chủ tất cả, không đòi hỏi gì cả, sẵn sàng cho tất cả. Đó là tinh thần thanh bần.

422. Khó nghèo không phải là không có của: Đó là thiếu thốn bần cùng. Khó nghèo trước tiên là tập dùng của cho đúng. Một cốc cà phê, một cốc bia, nhưng cũng là một cốc mồ hôi, một cốc nước mắt, một cốc máu đổi lấy nó. Một khói thuốc, nhưng cũng là một hơi thở hổn hển của người lao động vô danh.

423. Sự thanh bần thứ nhất là gì? – Là làm việc! Đây là niềm an ủi của con khi hiểu ý nghĩa của nhọc mệt lao tác hằng ngày. Hạnh phúc của con được Chúa nói trong Phúc âm: “Phúc cho tôi tớ đó; chủ đến mà gặp nó đang làm như thế!” (Lc 12,43).

424. Lúc 15 tuổi, thiếu nữ Clara đến tu viện, thánh Phanxicô hỏi chị: “Con đến tìm gì ở đây?” – Clara đáp: “Con tìm Thiên Chúa”. Câu trả lời gọn ghẽ và rõ rệt. Đó là tất cả kho tàng của chị. Clara đã nên thánh. Mấy ai biết chọn như chị?

Khoác lên lòng trong trắng
chiếc áo giáp cầu nguyện và hy sinh

 

425. “Phúc cho những kẻ tinh sạch trong lòng, vì họ sẽ thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Không phải chỉ có tu sĩ, mà cả người đời cũng phải trong trắng theo đấng bậc mình. Sống trong trắng không những không bị ràng buộc, mà còn được tự do hơn.

426. Có nhiều “thiên thần trong trắng” mà lại là ma quỷ của ghen ghét. Vô phúc cho cộng đoàn nào gặp loại “thiên thần” ấy.

427. Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhượng. Con hãy cầu xin hằng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con.

428. Người kiêu ngạo trước sau cũng sa ngã nặng, vì họ cậy vào sức riêng mình. Không dựa vào Chúa, Chúa bỏ họ.

429. Báo chí hô hào bảo vệ, tranh đấu cho nhân quyền, dân quyền, nhưng đồng thời nhiều người lạm dụng các phương tiện truyền thông xã hội trên thế giới để khêu gợi thú tính đầu độc con người bằng những món ăn dơ bẩn, coi con người như súc vật. Những người tranh đấu ở đâu? Các hội bảo vệ này nọ ở đâu? Họ đầu tư vào sách báo ấy, họ là độc giả chuyên cần!

430. Ma quỷ có thể đuổi được, thế gian có thể tránh xa được, còn xác thịt con mang theo mãi đến chết.

431. Muốn trong trắng con phải hy sinh. Cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu những bàn tay cắt tỉa.

432. Không có đức ái, sự trong trắng không ý nghĩa. Tại sao con giữ mình trong trắng? Vì con ích kỷ, không chịu được ai? Vì không ai yêu con nổi? Hay vì con muốn giữ lòng con để yêu Chúa và yêu tha nhân trọn vẹn hơn? – Chỉ lý do cuối cùng này mới chính đáng.

433. Bao nhiêu tâm hồn giáo dân trong trắng gương mẫu giữa trần gian. Tâm hồn tận hiến của con phải cảm phục, phấn khởi và vươn cao hơn nữa.

434. Nhiều thanh niên cười ngạo nghễ mỉa mai, cho là chuyện hoang đường của thời thượng cổ, nếu ai đề cập đến vấn đề sống trong trắng. Nhưng chính họ, họ lại chọn lựa người bạn trong trắng, họ đánh ghen, họ tự vẫn khi gặp người bạn đồi trụy.

435. Cha đã gặp nhiều người, thuộc nhiều giới, ở nhiều nước khác nhau, sống độc thân hạnh phúc giữa đời. Bí quyết của họ: “Sống cầu nguyện”.

436. Tu sĩ viện nhiều lý do để bào chữa cho sự ra đi của mình, nhưng phần lớn bỏ cuộc vì khởi sự bằng thế kẹt tình cảm và chấm dứt cầu nguyện từ lâu!

437. Mađalêna đã trỗi dậy và nên thánh, chừng nào con mới quyết định?

438. Con đừng bảo: “Nước không dập tắt được lửa!” – Chỉ vì nước ít lửa nhiều thôi.

439. Xác thịt là đặc công nằm sẵn trong con, sách báo phim ảnh, bè bạn xấu là những khí giới ngày càng tối tân hơn. Nếu không hiện đại hoá khí giới của con: Cầu nguyện, bí tích, hy sinh…, nếu không tỉnh thức canh phòng, không dẹp ngay mọi mầm mống nổi loạn, nếu nuôi dưỡng đặc công, bỏ các đồng minh là các thánh, là bạn tốt, con sẽ bị tấn công vũ bão và thảm bại.

440. Ăn uống nhậu nhẹt vô độ là mở cửa cho quỷ dâm dục.

441. Bác sĩ làm sao chữa lành được, khi bệnh nhân cương quyết nói mình không có bệnh, không chịu cho khám, không chịu uống thuốc.

442. Không trong trắng, việc tông đồ không bảo đảm: “Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt 6,21).

443. Đừng nói: “Tôi thương họ, vì họ thương tôi quá!” Con phải thương con trước, lấy gì đổi được linh hồn con?

444. Không thỏa hiệp với tính dâm ô, cũng như không thỏa hiệp với bệnh tật được vì đó là vấn đề sống chết.

445. Quả tim của con không phải bằng đá. Quả tim của con quý báu vì nó bằng thịt, vì nó biết yêu thương. Hãy can đảm cầm thánh giá cả hai tay và cắm vào đó.

446. Nói những chuyện dâm ô, dù để giải buồn cũng không có lợi; đừng nói bao giờ. Kinh nghiệm cho thấy, những người hay nói, sẽ làm: đây là tâm lý chiến.

447. Không nhận đối thoại với quỷ dâm ô, cũng như không đứng xem thử bom nguyên tử. Đào vi thượng sách!

448. Các thánh cũng yếu đuối như con, có vị yếu đuối hơn con nữa, có thế mới có công nghiệp, mới làm thánh. Họ chỉ khác con là họ quyết tâm.

449. Xác thịt luôn luôn mỏng dòn, dù mặc áo gì, dưới lớp áo vẫn là xác thịt.

450. Giá trị của thân xác con:
– Được cứu chuộc bằng Máu Thánh Chúa,
– Làm đền thờ Chúa Ba Ngôi,
– Sẽ vinh hiển muôn đời.
Đừng đem bán “xôn”!

451. Ban thông tin của quỷ dâm ô hấp dẫn lắm, luật sư của xác thịt biện hộ ráo riết lắm. Đừng đối thoại với nó, hãy biết sau chốc lát hưởng lạc, con sẽ cảm thấy chán ngấy, cắn rứt và cô đơn: con đổi thiên đàng lấy hoả ngục sao?

452. Thần ô uế chỉ sợ ăn chay và cầu nguyện, con đã làm chưa?

453. Khốn nạn nhất là khi không chấp nhận lời khuyên bảo của kẻ khác, mà còn tự cấp cho mình “giấy hạnh kiểm trong trắng hạng A”.

454. Đừng bao giờ khinh anh em, nếu con đứng vững đến hôm nay là nhờ ơn Chúa, coi chừng kẻo ngày mai con ngã nặng hơn!

455. Xem thường không giữ ngũ quan là mở cửa cho địch vào thành. Đavít thắng Gôliát khổng lồ nhưng không thắng được mắt mình.

456. Một khi đã trỗi dậy, hãy cầm khí giới và quyết liệt tác chiến, ban chiêu hồi của quỷ dâm ô khéo lắm!

457. Bại một trận không phải là thua cả cuộc chiến. Chúa dùng mọi sự để làm nên sự lành, kể cả tội lỗi.

458. Tôi không muốn biết, muốn nhớ quá khứ của anh em. Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em để thương nhau, nâng đỡ nhau, và tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau.

459. Càng sống trong trắng chí khí càng vững, vì đã được rèn luyện qua nhiều trận anh dũng.

460. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở Chúa Giêsu, khi thấy Ngài tha thứ và bênh vực kẻ tội lỗi: “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước hết người này đi! … Ta cũng không xử tội bà đâu! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,7.11) – “Các tội của bà, các tội lỗi nhiều đó, quả đã được tha rồi vì bà đã cảm mến nhiều” (Lc 7,47).

461. Người ta không hiểu được sự trinh khiết: có người cho là dại, có người cho là khó, có người cho là uổng. Nhưng dưới mắt Thiên Chúa là một kỳ công. Đời trinh khiết chỉ có thể thực hiện nhờ Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới giải thích được sự trinh khiết.

Gia đình, tế bào của Hội thánh

 

462. Hạnh phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu mà người ấy tập yêu suốt đời.

463. Chuẩn bị làm Linh mục có chủng viện, chuẩn bị làm tu sĩ có đệ tử viện, tập viện, chuẩn bị làm giáo sư có trường sư phạm, chuẩn bị làm cha mẹ có gì? – Chẳng có gì cả! Thật là một thiếu sót lớn lao trên thế giới. Lúc sau này tạm có lớp dự bị hôn nhân nhưng chưa đi đến đâu. Bao nhiêu người sẽ là nạn nhân do cuộc phiêu lưu của các con?

464. Con hãy suy niệm tiệc cưới Cana (Ga 2,1-10). Lúc đầu người ta lo ăn uống, vui chơi, hưởng thụ: nhưng giữa tiệc hết rượu, chỉ còn nước lã. Sau đó, người ta cầu xin Chúa: Ngài đã biến nước thành rượu và rượu sau ngon hơn rượu trước.
Con hãy ý thức rằng tự sức riêng mình phương tiện con có giới hạn, tình yêu con khó bền bỉ và gia đình con thiếu an vui. Nhưng có ơn Chúa phù giúp, phương tiện con thêm phong phú, tình yêu con thêm nồng nàn, gia đình con sẽ được hạnh phúc. Con hãy luôn nhớ sử dụng đến kho tàng đạo đức ấy giữa gia đình con.

465. Khi con còn trẻ, con đi nơi con muốn nhưng khi trưởng thành, người khác sẽ cầm tay con, nhiều người khác, nhiều bàn tay nhỏ sẽ níu lấy tay con, lôi kéo con đến nơi con không muốn, nơi mà không bao giờ con dám đến, không bao giờ con tin rằng con có sức đến… Nhưng tình yêu có thể giúp con làm tất cả!

466. Đối với nhau, cũng như đối với con cái, đôi bạn sống tất cả tình yêu của Chúa Giêsu đối với mỗi người. Nhờ đó, đôi bạn tham dự và sống mầu nhiệm cứu chuộc.
Đôi bạn tập yêu thương cách phong phú, vô bờ bến, như Chúa Giêsu yêu họ và yêu mọi người.

467. Tình yêu hôn nhân có sức rút từ quả tim con người tất cả can đảm, tin tưởng và quảng đại.

468. Đòi hỏi biến đổi mà không yêu thương làm cho bạn mình bất mãn. Yêu thương mà không đòi hỏi biến đổi là hạ giá bạn mình.

469. Yêu thương để giúp bạn biến đổi, là cho bạn phương tiện. Bắt bạn biến đổi mới yêu thương là cất hết phương tiện.

470. Phương tiện độc nhất để biến đổi tâm hồn bạn mình là chấp nhận bạn như thuở ban đầu, vì được yêu là điều kiện cần thiết để biến đổi.

471. Tình yêu luôn luôn thao thức; không phải vì hoài nghi tình yêu của bạn mình, nhưng vì thấy mình có trách nhiệm tạo cho nhau những gì là mới mẻ, là cảm hứng, là biến đổi, có khi chính bạn cũng không hay biết. Chính nỗi thao thức ấy là một niềm vui.

472. Có một sự sáng suốt đáng buồn: xét mọi người theo quá khứ của họ. Có một sự sáng suốt đầy yêu thương: đoán trước người ta có thể biến đổi tốt đẹp chừng
nào!

473. Tình yêu không mù quáng: thấy yếu đuối của người yêu và cố gắng gánh vác. Thấy khả năng của người yêu và tế nhị khơi dậy.

474. Người không biết yêu “xương của xương mình, thịt của thịt mình”, người không thể làm cho cái xã hội thứ nhất, nền tảng mọi xã hội khác được hạnh phúc? Làm sao cả gan canh tân cả thế giới được?

475. Thời đại ta, Hội thánh đã vạch ra một linh đạo về hôn nhân, cho chúng ta thấy hôn nhân là một phương thế để con người triển nở và là một ơn gọi đến sự thánh thiện.

476. Các con ngạc nhiên khi nghe nói đến “ơn gọi làm cha mẹ gia đình?” – Người ta lầm lạc khi dành ơn thiên triệu, bậc trọn lành cho tu sĩ thôi. Hai người thề hứa yêu nhau suốt đời trong Chúa Kitô, nhờ bí tích hôn nhân, không phải là một cách tuyên xưng đức tin, một cách khấn hứa sao?

477. Nếu giáo dân đặt nặng nhiệm vụ trần thế của mình, thì nhiệm vụ trần thế quan trọng nhất, quyết định nhất của họ là đời sống gia đình.

478. Canh tân gia đình để canh tân Hội thánh.

479. Con hãy bỏ thói quen sai lạc: khi nói về giáo dân, thì quan niệm họ như những người độc thân, sống riêng không có cộng đoàn, hoặc hiểu cách tiêu cực: giáo dân không phải là tu sĩ. Con đừng quên đa số giáo dân là những người sống trong một gia đình và phải hỏi rằng họ hiểu, họ sống bí tích hôn nhân công giáo thế nào?

480. Thật đáng buồn khi thế giới văn minh ngày nay chỉ hiểu giáo lý công giáo về hôn nhân qua “những luật cấm!”. Thế giới đâu ngờ Chúa Giêsu đã đến cứu chuộc tình yêu nhân loại, đã thăng tiến con người cách lạ lùng qua bí tích hôn nhân! Con phải học và trình bày khía cạnh tích cực, tốt đẹp của hôn nhân công giáo.

481. Phải nỗ lực về phương diện giáo lý cũng như mục vụ để làm cho các gia đình công giáo xác tín về sức mạnh của họ. Họ sẽ khám phá ra họ không phải là thành phần thụ hưởng, chỉ biết lãnh nhận giáo lý, lãnh nhận bí tích, lãnh nhận ơn Chúa, mà họ cũng là thành phần hoạt động tông đồ.

482. Ý thức được sứ mệnh của mình, nhiều gia đình công giáo sẽ đặt dưới quyền sử dụng của Hội thánh, những mãnh lực nhân loại và siêu nhiên của tình yêu vợ chồng, của bí tích hôn nhân, với một sự hăng say lạ thường.

483. Yêu bạn mình là hành động theo thánh ý Chúa. Lúc ấy các con hiểu rằng: trong đời sống thường ngày, các con có thể thực hiện ơn thiên triệu của các con, bằng mọi cử chỉ nhỏ nhặt, để đáp lại tiếng gọi của Chúa. Đó là một khiá cạnh khả dĩ cách mạng cả cuộc đời các con, đó là một mạc khải không thể quên được.

484. Tình yêu vợ chồng là hình ảnh, là dấu hiệu tình yêu của Chúa Kitô đối với Hội thánh. Trong mầu nhiệm ấy, con tìm thấy cao cả, sức mạnh và hiệp nhất. Phấn khởi và nâng đỡ biết chừng nào!

485. Chúa đã trao cho con một người bạn thân yêu, những đứa con xinh xắn, trong sáng, để nâng đỡ nhau nên thánh. Con đã làm gì?

486. Ý thức rằng các con đồng trách nhiệm về sự trưởng thành trong tình yêu Chúa,
Ý thức rằng ơn gọi của các con là cùng nhau và nhờ nhau nên thánh. Ý thức rằng ơn bí tích thường xuyên giúp đỡ các con. Các con hãy hăng say sống mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh qua mọi khiá cạnh của đời sống các con.

487. Phải khám phá ra rằng các con có thể và có bổn phận thánh hoá mình trong hôn nhân và nhờ hôn nhân.

488. Tất cả những thực tại của đời sống vợ chồng, cha mẹ, bao nhiêu trách nhiệm xã hội là bấy nhiêu cơ hội để bỏ mình, để vươn lên, để tiến tới trên đường thánh thiện chân chính.

489. Sự hợp nhất giữa đôi bạn phải rất trọn vẹn: hiệp nhất thể xác, tình yêu, tinh thần và thiêng liêng, nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Yêu trong Chúa, đẹp lắm! Yêu thương vì Chúa, càng đẹp hơn! Gia đình lắng nghe tiếng Chúa và cùng tiến lên trong sự thân mật với Chúa.

490. Những giây phút thinh lặng bên nhau, chìm đắm trong suy niệm,
Những giây phút tự phát cầu nguyện cho nhau, cho con cái,
Những giây phút trao đổi thân mật về đời sống thiêng liêng, về việc tông đồ, là một mạc khải, một niềm vui sâu xa và thắm thiết.
Các con hãy sống kinh nghiệm: Chúa ở giữa các con!

491. Sinh con cái không chỉ để đáp lại nhu cầu nối tiếp giống nòi, nhưng còn là ước muốn tăng trưởng Nhiệm thể. Giáo dục con cái là huấn luyện những kẻ thờ phượng Chúa Cha cách trung thực. Hãy khám phá và khâm phục ý định cao cả của Chúa về gia đình các con.

492. Huấn luyện những chi thể hoạt động cho Nhiệm thể Chúa Kitô, làm cho con mình nên con Chúa. Nhiệm vụ đó đòi buộc cha mẹ phải đi tiên phong về mọi phương diện, mọi nhân đức.

493. Gia đình là tế bào của Hội thánh, nói cách khác, là một “Hội thánh cỡ nhỏ” (Ecclesiuncula), ở đó Chúa Giêsu hiện diện, sinh sống, chết, phục sinh cách mầu nhiệm trong các chi thể. Tư tưởng ấy làm sáng tỏ ý nghĩa và có sức biến đổi đời sống của gia đình công giáo.

494. Gia đình là tế bào của Hội thánh.
Chân lý này làm thấy rõ sự cao cả và sứ mệnh của gia đình:
1. Nối tiếp Hội thánh Chúa Giêsu đã thiết lập ở trần gian.
2. Làm cho Chúa hiện diện như là Chủ gia đình thật sự.
3. Làm chứng tích sự hiện diện của Hội thánh bằng cuộc sống gia đình hằng ngày.
4. Nỗ lực vươn lên đến Chúa, làm Hội thánh cùng tiến lên.
5. Thắt chặt mối liên hệ giữa Chúa với mỗi chi thể trong gia đình.

495. Chúa Giêsu đã muốn xây dựng Nhiệm thể Ngài bằng những tế bào gia đình; Hội thánh có thể thay đổi đường lối tông đồ, thay đổi các hội đoàn, nhưng Hội thánh luôn luôn phát triển nhờ các gia đình. Đức tin được thông truyền qua các tế bào sống động và lành mạnh ấy.

496. Giáo dục con cái là “trường vươn lên” cho cha mẹ. Trẻ con có “cái nhìn chỉ trích”, chúng là những “quan sát viên khắt khe”. Chúng bắt buộc các con là bậc cha mẹ xử trí đúng vai trò của mình và nhờ đó giúp các con tiến lên.

497. Con hãy tin rằng: đời sống gia đình công giáo là một: “lối tu đức” riêng biệt.

498. Nếu chúng ta chủ trương rằng phải nhờ giới lao động thánh hoá giới lao động, thì chúng ta cũng phải tin rằng: gia đình công giáo là tông đồ số một của các gia đình khác.

499. Người ngoài đánh giá hôn nhân công giáo theo mức độ thánh thiện của gia đình công giáo.

500. Kinh nghiệm dạy các con rằng: kinh tối sáng trong gia đình, nói đúng hơn, giờ cầu nguyện của gia đình, thực hiện được ước vọng “thành một cộng đoàn Kitô hữu”, “một tế bào của Hội thánh”, như lời Chúa Giêsu: “Nếu các con hiệp nhau cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha…”

501. Gia đình công giáo làm tông đồ bằng “chứng tích”. Phải chứng minh rằng: các con được gọi nên thánh và các con có thể sống một đời hôn nhân đẹp lòng Chúa. Các con chia sẻ với các gia đình khác: ân sủng, hạnh phúc Chúa đã ban cho gia đình các con. Nhìn vào gia đình các con, thiên hạ phải đặt câu hỏi: “Tại sao họ có thể sống hiệp nhất, yêu thương, trung thành với nhau như thế?”.

502. Gia đình là một “trung tâm ánh sáng”, đem ngọn lửa hồng chiếu soi kẻ khác. Ngày nào mỗi gia đình là một “trung tâm ánh sáng”, thế giới này sẽ là một đại gia đình đầy ánh sáng, đầy hy vọng.

503. Gia đình công giáo làm tông đồ bằng “tiếp đón”. “Mở rộng nhà” các con và đồng thời “mở rộng lòng” các con. Nhà nào lại không có khách? “Tiếp đón” là cách thế tiện nhất, tự nhiên nhất, để làm chứng tích về tình yêu, về sự hiệp nhất, về niềm vui, về cởi mở… “Nghệ thuật tiếp đón” sẽ trở nên “tông đồ tiếp đón”. Các con hãy sống và làm cho những ai đến gia đình các con đều “thèm sống như các con”.

504. Giờ ngồi bên nhau, cùng nhau ngồi bên Chúa là giờ của chân lý, là một khám phá kỳ diệu, là một liều thuốc thần tiên. Bầu khí gia đình sẽ thay đổi, nhiều vấn đề gay cấn được thông cảm giải quyết. Trước kia hai vợ chồng “chung sống hoà bình” cách nông cạn, rời rạc. Giờ đây tất cả là một: một tình yêu, một niềm vui, một lo âu, một lời cầu nguyện.

505. Chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn nào có thể thay thế cha mẹ được.
Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày Ngài được ngũ tuần: “Thưa thầy mẹ, hôm nay con được năm mươi tuổi, Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi bên thầy mẹ”.

Học với Chúa Giêsu một khoa:
hiền lành và khiêm nhượng

 

506. Nếu con hiểu biết hạnh phúc được làm con Chúa thì những điều sỉ nhục không thấm gì với con và những lời hoan hô cũng chẳng thêm gì cho con.

507. Nếu con biết rõ mình, con sẽ tức cười, khi nghe người ta tung hô con, và con thấy việc họ khinh rẻ con là có lý. Chừng đó con lại ngạc nhiên tại sao người ta mới xử ngang độ ấy thôi.

508. Hồn tông đồ khiêm tốn và tạ ơn Chúa như Phaolô: “Tôi là người mạt nhất trong các tông đồ, và cũng không đáng gọi là tông đồ nữa, bởi tôi đã bắt bớ Hội thánh của Thiên Chúa. Hiện tôi có là gì, là bởi ơn Thiên Chúa” (1Cr 15,9-10).

509. Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng.
Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng.
Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con mới khiêm nhượng thật.

510. Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng khi suy niệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hạ mình chịu đựng mọi sự ngớ ngẩn dốt nát, hiểu lầm sâu độc của người ta suốt 33 năm vì yêu chúng ta.

511. Kiêu ngạo là ăn cướp ơn Chúa, vinh danh Chúa, để làm của riêng con, công nghiệp con.

512. Càng khiêm tốn Đức Maria càng trong sáng, vì càng thấy rõ những sự kỳ diệu Chúa làm trong lòng Mẹ. Như ánh sáng qua một bóng đèn thủy tinh không vướng bụi.

513. Người sống trước mặt Chúa không thể kiêu ngạo được – ngạo về điều gì? – Tất cả đều là của Chúa!

514. Coi chừng khiêm nhượng “giả hiệu” khi con từ chối mà kỳ thực là thoái thác bổn phận dấn thân của con và sợ chịu sỉ nhục vì Chúa.

515. Đừng chối những khả năng của con, những thành công của con, hãy tạ ơn Chúa vì Ngài sử dụng con như họa sĩ dùng ngòi bút ba xu.

516. Chỉ người khiêm nhượng thật mới được an vui như Chúa Giêsu dạy: “Hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm thấy sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”(Mt 11,29).

517. Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu được nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp!

518. Cương quyết vâng lời Hội thánh là trung thành. Quyết liệt hy sinh vì nhiệm vụ là can đảm, không phải kiêu ngạo.

519. Bao lâu con còn tôn thờ cái “tôi” của con, chẳng khác nào con cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tin con, hãy trông cậy vào con”.

520. Thử thách cay đắng nhất là chấp nhận giới hạn của mình. Chịu đóng đinh vào một thánh giá hẹp, con càng đau đớn hơn. Nếu thánh giá rộng con còn được thoải mái hơn phần nào!

521. Trong cuộc đời Chúa Giêsu, Ngài yêu thương cách riêng những kẻ khiêm nhượng, và quên hết tội lỗi của họ, không bao giờ nhắc lại:
– Phêrô,
– Mađalêna,
– Giakêu…
Chúa thân hành đến nhà họ, và đành chịu mang tiếng: “Bạn bè với quân thu thuế và tội lỗi” (x. Lc 7,34).

522. Không thể tránh căng thẳng, nhưng có thể giảm bớt căng thẳng được, trước hết Chúa không buộc con làm tất cả mọi sự. Thứ đến việc gì Chúa giao con làm, Chúa ban thời giờ và phương tiện. Nếu với tất cả cố gắng và thiện chí, con không thực hiện được là Chúa không muốn. Tại sao căng thẳng, ngã lòng? Cứ bình an!

Như hạt giống được chôn vùi trong lòng đất

 

523. Chúa Giêsu là Ngôi Lời, nhưng để thực hiện việc tông đồ theo ý Đức Chúa Cha, trong 33 năm, Ngài thinh lặng 30 năm và nhất là trong giờ tử nạn, Ngài đã thinh lặng.

524. Cẩn mật nhiều, con sẽ hối hận ít.

525. Đừng mong rằng nói nhiều, thiên hạ sẽ thông cảm với con. Càng nói càng thêm kẽ hở, thiên hạ càng hiểu ngược xuôi, xuyên tạc hơn. Rồi con cứ phải đính chính lời đính chính trước.

526. Chúa làm phép lạ rồi Chúa cấm nói. Chúa vinh hiển trên núi Taborê rồi cũng cấm nói. Lý tưởng tông đồ của con, con cứ ấp ủ và hành động, Chúa Thánh Thần sẽ giúp con. Thế gian sẵn sàng chê bai, chống đối vì sự bất cần của con.

527. Trong Thánh Kinh, Đức Maria cẩn mật, Bà Giuđích cẩn mật đã làm những việc anh hùng. Còn lực sĩ vô địch như Samson lại bại trận vì bất cẩn coi thường phụ nữ Đalila.

528. Hạt giống rơi xuống lòng đất được chôn vùi kín đáo sẽ sinh hoa kết quả, hạt giống rơi trên xa lộ bị chim trời tha mất, xe cộ nghiền nát, chẳng lợi lộc gì! (x. Mt 13,4-9).

529. Mỗi khi bi kích thích muốn khoe tài, mỗi khi bị khiêu khích muốn đấu khẩu, mỗi khi bực tức muốn cho nổ tung…: Thinh lặng, thinh lặng. Dù khôn mấy, con sẽ “phát thanh đặc biệt” và lời lẽ cũng sẽ chua cay sắc bén “đặc biệt” hơn con ngờ.

530. Bao nhiêu tác phẩm, bao nhiêu diễn văn, bao nhiêu chương trình, kế hoạch quan trọng của con được thành công rực rỡ đều phát xuất từ tế bào âm thầm của óc não, từ những nhịp đều của quả tim khiến máu tuần hoàn nuôi sống các bắp thịt con hoạt động. Nội tâm thâm trầm là căn bản: hy sinh, nhẫn nại, suy tư, yêu mến.

531. Cẩn mật đâu phải là mầu nhiệm, chỉ là sự tế nhị tự nhiên. Chẳng hạn con đâu muốn ai đem cuộc đời cá nhân của con ra phơi bày bàn tán công khai. Khi căn dặn thiên hạ giữ bí mật con vừa tiết lộ thì con đã “bật mí” tất cả rồi, điều đó chứng minh là chắc chắn chính con cũng không giữ nổi.

Trao tặng cho nhau niềm vui


532. Thánh thiện đâu phải là nhăn nhó, khổ sở, đau thương! Thánh thiện là tươi vui liên lỉ vì được Chúa, “được đất trên trời là của mình vậy”.

533. Đừng buồn phiền, hãy có cái nhìn siêu nhiên và con sẽ thấy mọi sự dưới khía cạnh mới.

534. Tại sao không vui? Chắc là giữa tâm hồn con với Chúa có điều gì không ổn. Xét mình đi, con sẽ thấy ngay.

535. Con phải vui tươi luôn. Đường Hy vọng không chấp nhận lữ hành buồn phiền. Đường Hy vọng đem lại vui tươi.

536. Nếu con làm vì Chúa, tại sao con nản lòng? Càng gian truân con càng vui tươi như Gioan và Phêrô bị đánh đập ở hội đường “bước ra khỏi Công nghị hân hoan vì đã thấy mình xứng đáng được chịu xỉ nhục vì danh Chúa” (Cv 5,41), nhưng Phaolô: “Tôi được chan chứa an ủi, và tràn ngập vui mừng trong mọi nỗi gian truân của chúng tôi!” (2Cr 7,4).

537. Thành công, con cám ơn Chúa, thất bại con cũng cám ơn Chúa. Hãy vui tươi luôn. Vì chính khi thất bại là lúc Chúa muốn thử xem con làm vì Chúa hay vì ý riêng con. Vui vẻ, can đảm lúc thất bại khó khăn hơn hân hoan lúc xuôi may. Hạng anh hùng này con đếm được trên đầu ngón tay.

538. Ưu sầu, chán nản, năn nỉ, phàn nàn… Lúc này người ta mới thấy rõ giá trị những lời khuyên nhủ hùng hồn, những lời tuyên bố nảy lửa của con đến đâu. Thấy mặt con, ai dám theo Chúa nữa.

539. Vui với người thương con.
Vui với người ghét con.
Vui lúc con hớn hở.
Vui lúc lòng con đau khổ tê tái.
Vui lúc mọi người theo con.
Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi.
Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát.
Đó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay, hãm mình.

540. Con không có tiền? Con không có quà để tặng? Con không có gì cả? Con quên tặng họ niềm vui, tặng sự bình an mà thế gian không thể cho được; kho tàng vui tươi của con phải vô tận.

541. Làm sao cho hết buồn? Hãy cầu nguyện! Tại sao thế? Vì con gặp Chúa. Mađalêna tìm xác Chúa, hai môn đệ đi làng Emmau đã gặp Chúa và quên hết mọi u sầu (x. Lc 24,33-35; Ga 20,18).

542. “Càng được chung phần thống khổ của Đức Kitô chừng nào, anh em hãy vui mừng! Ngõ hầu khi vinh quang của Ngài mạc khải ra, anh em cũng được vui mừng hớn hở” (1Pr 4,13).

Thánh giá, sách dạy sự khôn ngoan thật


543. “Lời giảng Thập giá, đối với những kẻ đang hư đi, là một sự điên rồ; còn đối với chúng ta là những người được cứu, lại là quyền năng của Thiên Chúa” (1Cr 1,18).

544. Người ta khen hay chê, con đừng lo sợ vì bị mất mát hay sung sướng vì được tăng thêm điều gì.
Chỉ một điều làm con thiệt hại: tội lỗi.
Chỉ một điều tăng thêm giá trị: nhân đức.
Khen chê đừng lo, cũng như không sợ súng giả, không ham bạc giả.

545. Ai “làm cho tan tác lũ kiêu căng lòng trí”? (Lc 1,51).
Ai “hạ kẻ quyền năng khỏi ngai báu”? (Lc 1,52).
Ai sẽ mang lại trật tự cho bao tư tưởng lộn xộn, lệch lạc?
Ai sẽ đem bình an cho người thời đại ta để vững tâm đi trên đường hy vọng?
Chỉ có Khôn Ngoan Thiên Chúa ban qua tay Đức Mẹ, “Toà Đấng Khôn Ngoan”.

546. “Thế giới nghèo” quằn quại trong đói khát, tủi nhục, trong bao vấn đề xã hội, lúng túng giải quyết không được. Khó bó khôn.
“Thế giới tư bản” lặn lội trong khoái lạc, tạo thêm nhu cầu, đầu óc chất chứa tư tưởng lộn xộn, tuyên truyền thêm bất an, hoang mang, tự tôn mình làm thầy thiên hạ. Ngạo mất khôn.

547. Thế giới không chỉ biến đổi nhờ hành động, thế giới còn biến đổi nhờ tư tưởng, vì tư tưởng chỉ huy hành động.

548. Khi những người thông minh nghĩ mình biết tất cả,
Khi những nhà bác học tưởng mình khám phá được tất cả,
Biết quỳ gối nguyện cầu Thiên Chúa,
Biết khiêm tốn nhìn nhận những phát minh của mình chỉ là một tia sáng từ trời chiếu
soi.
Lúc ấy họ nhìn vũ trụ với cặp mắt khác, họ thấy mọi sự được tổ chức theo một trật tự, một chương trình hoàn hảo từ đời đời.

549. Các nhà bác học, các thiên tài đã đóng góp rất nhiều cho văn minh thế giới, nhưng họ chỉ có những mảnh vụn ánh sáng, mảnh vụn chân lý. Một thế giới muốn có trật tự tốt đẹp, cần phải có một sự khôn ngoan siêu việt: Ngôi Lời, “nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”.

550. Ngôi Lời đã nhập thể, và Đức Chúa Cha đã phán: “Ngài là Con chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài” (Mt 17,5).
Người là Đường: Con chỉ theo bước chân Người.
Người là sự Thật: Con chỉ tin lời dạy của Người.
Người là sự Sống: Con chỉ sống bằng tinh thần của Người (x. Ga 14,6).

551. Con đừng nghi ngại lúc thấy đường hy vọng vắng bóng những người mà thế gian cho là khôn ngoan. Chúa Giêsu đã báo trước: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu các điều ấy với hạng khôn ngoan thông thái, mà đã mạc khải ra cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25).
Con hãy cảm tạ Chúa vì đã ban cho con biết sự khôn ngoan thật.

552. Thế gian sợ sự khôn ngoan thật, vì Chúa Giêsu gọi đó là “đường hẹp”, vì nó đảo lộn cuộc sống cũ, vì nó quấy rầy thế gian, vì nó đặt lại nấc thang giá trị, vì thiên hạ cho là “chướng tai”. Nhưng qua mọi thời đại những tâm hồn thiện chí khiêm cung, và giới trẻ đầy nhiệt huyết, đã theo sự khôn ngoan ấy đến cùng.

553. Sự khôn ngoan Chúa Thánh Thần ban, sẽ soi sáng các dự định, hướng dẫn các chương trình, đem lại cho các hành động của con một giá trị vĩnh cửu, và sẽ làm cho con thành người bất tử, trường sinh.

554. Con tin tưởng và theo gương Thánh Phaolô: “Khi đến với anh em, tôi đã không đến với uy thế của ngôn ngữ, hay khoa khôn ngoan để rao giảng chứng chỉ của Thiên Chúa. Quả tôi đã quyết định là giữa anh em, tôi không muốn biết gì, ngoài Đức Kitô Giêsu và là Đức Kitô Giêsu bị đóng đinh thập giá” (1Cr 2,1-2).

555. Chúa Giêsu chịu đóng đinh là sự khôn ngoan từ trời; Ngài đã làm một cuộc cách mạng sáng chói, không thể che đậy được, với một mãnh lực không thể kìm hãm được. Kinh nghiệm hai mươi thế kỷ nay cho thấy rõ như thế và nhiều người can đảm đã đứng hàng đầu, phục vụ sự khôn ngoan ấy.

556. Muốn được khôn ngoan con hãy tha thiết cầu xin và phó thác cả cuộc đời, sống tuyệt đối theo ý Chúa. Đến giờ phút cần thiết, dù bị điệu đến trước toà quan, lúc ấy không phải con nói, nhưng chính Chúa Thánh Thần sẽ nói bởi miệng các con, như “Stêphanô đã rao giảng, đầy lòng tin vào Chúa Thánh Thần” (x. Cv 6,9-10).

Học là cầu nguyện


557. Muốn tiến kịp, tiến nhanh, tiến vững trên đường Hy vọng, con phải học.

558. Giờ học là giờ cầu nguyện.

559. “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi!” (Mt 22,37). Chưa học để phục vụ đúng mức, con chưa mến Chúa đủ.

560. Học để biết. Học để canh tân. Học để phục vụ. Học để yêu mến.

561. Ai có mười nén phải làm lợi mười nén.
Ai có năm nén phải làm lợi năm nén.
Ai có một nén cũng phải làm lợi một nén (x. Lc 19,13-25).
Con mang trách nhiệm nặng nếu con từ chối học hỏi khi có thể được.

562. Học đây không chỉ là vào lớp trau dồi kiến thức văn chương khoa học. Học là luyện khả năng của con, nghề nghiệp của con cho tinh vi, hiện đại.

563. Muốn cách mạng thế giới, phải có ơn Chúa, nhưng con phải là khí cụ điêu luyện.

564. Trách nhiệm càng cao mà thiếu khả năng nghề nghiệp càng khốc hại. Con muốn phó mạng trong tay một phi công, một bác sĩ thiếu kinh nghiệm không?

565. Xem nghề nghiệp con là một ơn gọi thực hiện ý Chúa giữa xã hội, con sẽ thánh hoá nghề con.

566. Hy sinh cho nghề nghiệp, tận tụy cho văn hoá, phục vụ cho khoa học, cao đẹp lắm, nhưng con nhớ đây là phương tiện, không phải là cùng đích.

567. Làm việc! Học và hành không lìa nhau. Con sẽ gần thực tế hơn, con sẽ thấy: nói dễ, làm khó. Con sẽ bớt phê bình, con sẽ năng xét mình.

568. Hội thánh cần sự hợp nhất của những bộ óc thông minh để đem tình yêu Chúa đến trong mọi lãnh vực trần thế. Hội thánh đau khổ và rối loạn vì sự chia rẽ và lộn xộn của những bộ óc thông minh mà tự cao, tự đại. Các thần dữ đã làm như thế.

569. “Ở nhưng là cội rễ mọi sự dữ”. Tông đồ không biết ở nhưng. Không có “tông đồ hưu”, chỉ đổi cách làm việc tùy sức.

570. Thanh niên, đời con đầy hy vọng, hãy hăng say luyện đức và rèn tài. Phấn khởi và tươi sáng biết bao vì con thao thức vươn lên lý tưởng tông đồ, đó là môi trường hoạt động của con.

571. Trên phi cơ, nhìn thấy xe cộ, nhà cửa, loài vật như đồ chơi của lũ trẻ, lên nguyệt cầu mới thấy địa cầu nhỏ bé. Càng học hỏi thông thái, càng khiêm tốn, càng muốn học thêm.

572. Hội thánh ở giữa trần gian. Phải đem tất cả mọi kiến thức khoa học sử dụng vào việc bênh vực và trình bày chân lý. Càng hiểu biết con càng phục vụ Hội thánh đắc lực hơn.

573. Người càng thông thái, càng thấy khoa học có giới hạn. Nhiều người dốt, tưởng sự hiểu biết của mình vô hạn.

574. Nhiều người công giáo thông thái, nhưng khi sinh hoạt giữa xã hội lại giấu giếm tính cách công giáo của mình. Đó là “công giáo sơ mi”, tiện đâu thay đó.

575. Nếu mỗi ngày con học thuộc một danh từ, nếu mỗi tháng con đọc thêm một cuốn sách, đến nay con đã tiến nhiều. Nếu đến nay con chưa làm, hãy khởi sự ngay từ hôm nay.

576. Không thông thạo, con dễ tự phụ, và tuyên bố táo bạo. Trường hợp có địa vị, con càng dễ ảo tưởng mình thông thạo hơn nữa. Đại họa cho con và cho nhiều người vì sự bất lực ngạo nghễ của con.

577. Tài không đủ, phải có đức. Tài của người kiêu căng, khó chịu, chỉ để sử dụng với máy móc và chất hoá học, không để yêu thương và thuyết phục người khác.

578. Tự xem mình “chuyên môn tất cả” là phản khoa học và lạc hậu. Thời đại này, muốn phục vụ phải đem tất cả mọi hiểu biết để hợp tác.

579. Văn bằng chứng tỏ con đã thông minh trong một giai đoạn nào đó, đặc biệt lúc đi thi. Nếu sự học hỏi của con dừng ngang đó, dù một đống văn bằng cũng không bảo đảm sự thông minh của con.

580. Con hỏi: “Học đến bao giờ?” Học luôn mãi! Thế giới biến chuyển luôn, công việc của Hội thánh mới mẻ luôn, khí cụ của Hội thánh phải tối tân mãi. Chúa không ban sự khôn ngoan của Salômon và ơn thông hiểu thiên phú của Đức Maria cho người làm biếng.

581. Con hiểu biết một chân lý khi con tìm học chân lý ấy. Con càng thông hiểu rõ rệt hơn khi con tìm cách bênh vực chân lý ấy.

Vinh dự của con người
là chinh phục và cứu chuộc vũ trụ


582. Phát triển không phải chỉ là cho ăn, cho mặc, cũng không phải chỉ phát cày, phát cuốc, đào giếng, đào mương. Phát triển là thăng tiến con người toàn diện, là làm họ sống “xứng người hơn”.

583. Con đừng thỏa mãn khi đã giúp người ta.
Con đừng làm việc dễ hơn cả: cho.
Chúa đòi con làm việc khó hơn, giúp kẻ khác để họ tự giúp lấy mình và để họ biết sẵn sàng giúp mọi người.

584. Thiên Chúa muốn chúng ta hợp tác trong việc tạo dựng cũng như trong việc cứu rỗi. Nếu Chúa làm một mình, công trình sẽ hoàn hảo hơn, nhưng con người sẽ kém “cao cả”.

585. Chúa dạy con, xong công việc, hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm” (Lc 17,10). Thật là sâu xa, giàu ý nghĩa. Vô dụng vì chính ơn Chúa đã làm, con chỉ là khí cụ. Vô dụng vì con không cần giữ anh em trong tình trạng thụ ơn, thua kém vĩnh viễn, nhưng đã làm cho họ không cần đến con nữa.

586. Hãy làm cho người khác lớn lên và con khuất đi.
Hãy cho họ ít hơn, đòi hỏi họ nhiều hơn.
Hãy biết cứu họ và làm cho họ cứu kẻ khác.
Đừng khư khư giữ địa vị ân nhân, viện trợ, nhưng làm anh em của mọi người, phục vụ mọi người.

587. Mặc dù giúp anh em sung sướng bao nhiêu đi nữa, nếu để họ thành những “bộ máy tự động”, con chưa làm cho họ phát triển thực sự.

588. Thảm kịch của người nghèo không phải chỉ là thiếu thốn, nhưng còn vì họ không thể sống “xứng con người”.

589. Giám đốc và công nhân, sĩ quan và binh sĩ, giáo sư và học sinh, khác biệt nhau vì địa vị, vì cấp bậc, nhưng đó chỉ là phụ thuộc. Họ đồng hàng với nhau vì là “người”, vì là anh em con Chúa, điều ấy mới quan hệ: “Ta không gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ mình làm. Ta đã gọi các con là bạn hữu, vì mọi điều Ta đã nghe nơi Cha Ta, Ta đã tỏ cho các ngươi biết” (Ga 15,15).

590. Món quà tuyệt hảo mà con có thể tặng người giúp việc con không phải là chiếc áo đẹp, đôi giày tốt, cái đồng hồ quý, nhưng là “tình người”, tình anh em mà còn âm thầm tặng họ qua các cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày.

591. Chúa có thể chọn những người “thụ động”, nhưng Ngài đã chấp nhận “lầm lẫn”, chọn những người tội lỗi, hung hăng, rắc rối để hợp tác với Ngài.

592. Chấp nhận những người chỉ biết nằm, biết ngồi, chỉ muốn lẽo đẽo đi theo, muốn được giúp, được cứu, được cho, để con được làm anh trưởng, được luôn luôn xem là cần thiết, thật dễ vô cùng! Nhưng con hãy luyện những con người có tinh thần trách nhiệm, những con người muốn đứng, những con người đáng làm người.

593. Thật là khó: Nhưng con phải quyết tâm giúp cho người khác:
– Biết vùng dậy.
– Biết suy tư.
– Biết chiến đấu.
– Biết chống lại ý con khi cần.
Con sẽ hạnh phúc thật vì anh em thăng tiến với con.

594. Nguyên tử lực là khám phá lớn lao và hãnh diện cho thời đại ta. Ít người sử dụng nó vào mục đích hoà bình, phát triển. Càng ít người biết chiêm ngưỡng, ca ngợi quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng nhiều người chiếm lấy món quà của Cha trên trời, để chế tạo khí giới ngày càng kinh khủng giết chết anh em.

595. Một điều sỉ nhục lớn lao con người làm cho Thiên Chúa là lạm dụng các món quà Ngài ban vào những mục đích bất công, tày trời, vào những việc huynh đệ tương tàn khủng khiếp.

596. Không phải vũ trụ hết chỗ ở, nhưng lòng người quá chật hẹp! Không phải hết thịt để ăn, nhưng loài người chực vồ nuốt nhau hơn thú dữ.

597. Bớt diễn thuyết về hạn hán ở Sahel, sóng thần ở Bangladesh, bạo động ở Nam Mỹ, nhưng hãy tìm thấy “Chúa Giêsu bị bỏ rơi, kém mở mang”, kề bên con, dưới mái nhà con, bên kia vách tường con. Nếu nguồn suối yêu thương của nhân loại đã ráo cạn, nếu sóng thần của hận thù ích kỷ đã dâng cao, thì đại họa diệt vong không còn xa!

598. Nhân loại hãnh diện vì mãnh lực của nguyên tử, vì công dụng của dầu hỏa, vì sức tàn phá của hỏa tiễn, vì phi thuyền lên tận các hành tinh: thời đại của “khả năng vô biên”! Hãnh diện ấy có thể làm cho thế gian ra bụi tro, nếu bỏ mục tiêu phát triển và quên Thiên Chúa, “Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”.

599. Đại họa không phải chỉ là đói khát, khốn khổ của các dân tộc nghèo khó. Đại họa chính là sự vô ý thức của các dân tộc no nê và bóc lột.

600. “Phát triển là danh hiệu mới của hoà bình” (Phaolô VI).

601. Bao lâu các quốc gia mở mang chưa bỏ một phần trăm lợi tức giúp các dân nghèo phát triển; Bao lâu hai mươi phần trăm dân giàu trên thế giới còn chiếm hết tám mươi phần trăm tài nguyên của nhân loại. Thì hiểm họa thế chiến nguyên tử không thể tránh được.

602. Vạch kế hoạch và thực hiện viện trợ phát triển bất vụ lợi có triển vọng mang lại hoà bình hơn là các cuộc hội nghị chế vũ khí hạch tâm, thượng đỉnh kinh tế… Phí giờ, phí của, chẳng ai tin ai!

603. Con phải là “Tông đồ phát triển” như Đức Phaolô VI đã kêu gọi. Chính ngài đã là vị “Giáo Hoàng lữ hành vì phát triển và hoà bình”.

604. Nói cách cụ thể, phát triển là thực hiện Chúc Thư của Chúa Giêsu trên trái đất: mọi người yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, san sẻ với nhau trong tình huynh đệ phổ cập.

Mức độ dấn thân:
“Thí mạng” như Chúa Giêsu


605. Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu nghĩa dấn thân sâu hơn: Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình vì người khác, hiến mình hoàn toàn nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong công việc Chúa nơi họ được thành công.

606. Con người chỉ giống hình ảnh Chúa khi hiến mình liên lỉ như mỗi Ngôi trong Thiên Chúa:
Hoàn toàn hiến dâng,
Hoàn toàn tương quan,
Hoàn toàn yêu thương.

607. Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa trong con khỏi những bụi bặm bao phủ, dơ bẩn che đậy. Như nhà điêu khắc đục dũa tảng đá để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần.

608. Khi con giúp kẻ khác quên bản thân để hiến mình, con giúp họ làm hình ảnh Chúa hiện tỏ nơi họ.

609. Chính lúc hiến mình, con tập biết hiến mình. Vì nói hiến mình dễ, thực sự hiến mình khó; giảng khuyên hiến mình dài, tình nguyện hiến mình ngắn; hô hào hiến mình đông, bền đỗ hiến mình hiếm.

610. Mỗi dịp hiến mình trong ngày không phải là một khổ đau, mất mát, nhưng là một đề nghị của Chúa để con được lớn lên.

611. Con phải hiện diện trên đường hy vọng dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến, đó là cách con phục vụ họ tốt đẹp hơn cả: con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô.

612. “Đây là bằng chứng để ta biết được lòng mến: là Đấng ấy đã thí mạng mình vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng mình vì anh em” (1Ga 3,16).
Con hỏi Cha: “Đâu là mức độ dấn thân?” Hãy làm như Chúa Giêsu: “Thí mạng”. Nếu con tuyên bố rùm beng, hoạt động khơi khơi, sống đạo lè phè, con sợ cực, sợ nghèo, sợ tù, sợ chết… Nếu con dấn thân lối: “Cứu viện cho người thắng trận”, thì thôi nên dẹp tiệm. Đó là “dấn thân trá hình”, “dấn thân thương mại”.

613. Con không muốn làm một mình, con muốn làm cho người khác cũng biết làm,
Con không muốn dâng hiến một mình, con muốn người khác cũng dâng hiến,
Con không muốn tạo cảm tình cho cá nhân con, con thúc đẩy người khác mở rộng vòng tình cảm đến anh em như một hòn đá tung xuống nước cứ gợn sóng tràn ra mãi.
Để lôi kéo họ ra khỏi chính mình, và trở nên con người như ý Chúa muốn từ đời đời.

614. Tại sao con cảm thấy đời mình lạc lõng, dở dang? Tại sao con thấy con đang xao xuyến; ngột ngạt? Vì con chưa đánh tan mây mù dày đặc đang che khuất hình ảnh Chúa trong con.

615. Những người khác quanh con, cả nhân loại đau thương, khấp khểnh trên đường mịt mù…
Đời con phải là hiến dâng,
Để bắt nhịp cầu hy vọng,
Để đưa họ đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả.
Bên Chúa, nhân loại không còn ai xa lạ, nhưng tất cả là anh em con.

616. Có người nhắm mắt ngoảnh mặt để khỏi nhìn, có người bịt tai giả điếc để đừng nghe. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Con hãy nhìn rõ, nghe kỹ, học với thực tế, học với người khác. Thực tế là bài học, người anh em là thầy con.

617. Các nhà xã hội học, tâm lý học, phân tích theo chuyên môn, làm nhiều thống kê công phu. Con đừng xem thường những công trình khoa học ấy, nhưng con hãy tiếp thu các câu hỏi họ nêu ra và đọc với đôi mắt đức tin.

618. Con gặp trăm ngàn thanh thiếu niên, lây lất trên đường, không lối thoát. Họ bàn tán bất tận về mộng xây dựng một xã hội mới, một con người mới, nhưng họ đã gặp xì-ke, bạo động, trụy lạc, dối trá, chán nản… Họ cần con, họ kêu con: tiếng kêu của người chết đuối, tiếng van của người ngộp thở.

619. Đây là mấy hạng dấn thân con nên biết:
Có người sau một thời gian vẫy vùng dấn thân, đâm ra hoài nghi giá trị cuộc đấu tranh, rồi rút lui về nhà thờ, tìm nguồn an ủi, “sợ bỏ quên Chúa, tôi không dấn thân”.
Có người “dấn thân cả xác lẫn hồn” vào cuộc đấu tranh, và để rảnh tay chém chặt, họ buông thả luôn cả Thiên Chúa. Trước họ nghĩ rằng: “Để thành công rồi sẽ nhớ Chúa”, sau cùng họ nói: “Đây là việc đời, tôi dấn thân, Chúa không liên hệ, mời Chúa đứng ngoài”.
Có người không chịu đào tẩu khỏi chiến trường mà cũng không phản bội sứ mạng Chúa trao, họ xác tín chỉ thắng trận với Chúa Kitô; vì thế với tất cả tâm hồn, họ nói: “Tôi dấn thân với Chúa Kitô”.

620. Con có phải là hạng công giáo ngoan đạo, sống quanh quẩn phòng thánh và đã hoá nên “nửa thần, nửa thánh, nửa người” không? Hãy theo Chúa Giêsu: Thiên Chúa thật và người thật đến với trần gian. Xin con hãy “nhập tịch” người lại.

621. Đừng để thiên hạ xây dựng thế giới này mỗi ngày mà con không hay biết, không khám phá, không thao thức, không nhúng tay vào. Chúa đã cứu chuộc con, và đặt con vào thế gian trong thế kỷ này, thập niên này, môi trường này. Đặt con, chứ không phải cục đá! Khác nhau lắm! Đừng làm “công giáo bù nhìn”.

622. Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội, là gương xấu tai hại nhất trong thời đại chúng ta.

623. Một cuộc cách mạng thật sự, khả dĩ canh tân tất cả, từ nơi sâu thẳm của lòng người đến toàn bộ cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội… của thế giới, không thể thực hiện “ngoài con người, ngoài Thiên Chúa”, nhưng chỉ được thực hiện “bởi con người, trong Chúa Kitô, với Chúa Kitô”. Con hãy dấn thân vào mặt trận cách mạng thế giới ấy.

624. Lâu nay cha thấy con đi kề bên Chúa mà không thấy Chúa, không gặp Chúa, không suy tư với Chúa, không đối thoại với Chúa, không hành động với Chúa. Con không an vui trong tâm hồn, và dấn thân một mình, ngoài Chúa. Con đã mời Chúa lui về nhà thờ!

625. Người Kitô hữu dấn thân khác với người ngoài vì nhìn mục đích và phương tiện với cái nhìn của đức tin:
Mục đích: Vì Chúa Kitô, con mến Chúa trong anh em.
Phương tiện: Hãy nhớ rằng, qua các tổ chức, các cơ cấu, con nhắm “con người” hợp tác chân thành, chứ không “giựt giây” họ, yêu thương chứ không thù ghét, không vụ lợi, không làm loạn.

626. Con phải chọn cách dấn thân, căn cứ vào khả năng của con, nhu cầu của anh em, môi trường con đang lặn lội. Con không làm được tất cả, nhưng làm tất cả những gì con làm được, vì làm với “đức tin”.

627. Tông đồ đạo đức cũng là một lối dấn thân, nhưng các hoạt động rất đáng khen ấy, không miễn cho con khỏi dấn thân phục vụ anh em trong các việc trần thế, nơi mà Chúa Quan Phòng đặt để con.

628. Sống đức tin, con sẽ nhìn đôi mắt Chúa Giêsu, con sẽ thấy chiều kích đời đời trong các biến cố.

629. Khi theo dõi tin tức, con phải nhìn thấu qua con người, lịch sử và xác tín: “Đây là tin tức của Nước Trời”; rồi sau khi xếp báo lại, tắt Rađiô, Tivi, con sẽ cầu nguyện sốt sắng.

630. Sau những hàng chữ trên mặt báo, trong những hình ảnh trên truyền hình, qua những tin tức của làn sóng điện, con khám phá giá trị Phúc âm trong những biến cố, con vui mừng và hy vọng, trước những thuận lợi cũng như lo âu và sầu khổ, trước những trở ngại cho bước tiến của Dân Chúa trên đường về Đất hứa.

631. Chúng ta thường phân biệt đạo và đời, hồn và xác, nhưng các yếu tố ấy không thể tách rời nhau được:
Chỉ có một cuộc sống,
Chỉ có một lịch sử,
Đạo đời, hồn xác đều liên hệ mật thiết.

632. Bí quyết để đọc xuyên qua các biến cố là lấy Phúc âm nuôi tâm hồn con; sự thông hiệp liên lỉ với Chúa Giêsu sẽ cho con có tinh thần của Ngài: Chúa nhìn trần gian thế nào? “Đức Chúa Cha đã yêu trần gian đến nỗi sai Con Một Ngài xuống cứu trần gian” (x. Ga 3,16).

633. Mỗi giây phút, con đang thực hiện chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử.

Chuẩn bị lễ Hiện xuống mới trong Hội thánh


634. Canh tân là trở về nguồn. Công thức canh tân:
Làm cho người công giáo trở lại đạo Công giáo.
Làm cho người Kitô hữu trở lại với Chúa Kitô.
Mới nghe, con ngạc nhiên, nhưng ngẫm nghĩ lại, con sẽ thấy đúng như vậy. Một câu nói của Gandhi nhiều lần khiến ta suy nghĩ: “Tôi mến Chúa Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô”.

635. Canh tân không phải chỉ đổi nước mã bên ngoài, đổi một số nghi thức cho “ngoạn mục”, đổi tên các ủy ban cho “kêu” hơn, đạp đổ cơ cấu cũ, dựng nên một số tổ chức mới, hội nghị, tuyên ngôn…
Thánh Phaolô nói rõ: “Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em u tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện, bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).

636. Người ta thường bảo: Hội thánh ù lỳ, cổ xưa, nặng nề cơ cấu, nên không lạ gì phải có khủng hoảng. Không đúng vậy đâu. Con đừng la làng và đổ lỗi cho Hội thánh để miễn cho con xét mình và suy nghĩ. Hội thánh là toàn thể dân Chúa, trong đó có con.
Đây là nguyên do khủng hoảng:
1. Hạ giá việc cầu nguyện.
2. Không có tinh thần siêu nhiên, cũng nói cũng nghĩ như kẻ khác.
3. Không chấp nhận sự điên dại của Thánh giá.

637. Nói đến canh tân, người ta đã hao tốn bao nhiêu giấy mực để viết đề tài “trở về nguồn”. Nói thừa rồi, con hãy làm!
Các Kitô hữu từ đầu đã làm gì?
Họ đã bị đánh động mãnh liệt bởi “Chúc thư yêu thương” của Chúa Giêsu, còn tươi rói trong con tim họ. “Cuộc cách mạng tình thương” ấy đã canh tân cả thế giới La-hy, biến đổi nó tận gốc rễ, đã lột xác con người cũ, để thay vào đó một mẫu người mới, một xã hội mới.

638. Tình yêu nhân loại giới hạn vào một nhóm người, tình yêu thần linh đón tiếp mọi người.
Tình yêu nhân loại đáp trả sau, tình yêu thần linh tình nguyện đi trước.
Tình yêu nhân loại kéo riêng về mình, tình yêu thần linh hợp nhất với kẻ khác.
Tình yêu nhân loại chỉ phần nào động đến con người, tình yêu thần linh biến đổi cả con người.
Một khi con người được biến đổi, xã hội sẽ biến đổi, luật lệ sẽ biến đổi, liên lạc giữa người với người sẽ biến đổi: canh tân toàn diện.

639. Con hãy về tận nguồn là Thiên Chúa để canh tân. Thánh kinh nói về Thiên Chúa làm sao?
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Chúa Giêsu nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30).
Chúa muốn con canh tân như ý Chúa: “Như Ta đã yêu mến các con, các con hãy yêu mến nhau” (Ga 13,34). “Để hết thảy chúng nên một, cũng như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha” (Ga 17,21).

640. Phải canh tân bao lâu?
– Phải luôn luôn khởi sự lại,
– Phải luôn luôn tu chỉnh thêm.
Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh minh rằng, dừng lại là khởi sự thụt lùi xuống dốc, khởi sự thoái hoá.

641. Con hỏi phải canh tân bản thân con đến mức độ nào? Cha muốn con canh tân đến mức độ sung mãn của Chúa Kitô theo tinh thần Thánh Phaolô, nghĩa là đến độ không thể thêm gì vào trong con, và cũng không thể lấy bớt gì của con được, mà sự giàu có của con là chính Chúa Giêsu.

642. Con phải canh tân tâm hồn sao cho quảng đại đơn sơ đối với Chúa: “Chúa muốn gì, con cũng cho hết”, và đừng quên điểm thứ hai: “Chúa cho gì con cũng nhận hết”.

643. Khi con tật bệnh, cha mẹ tiếp máu chuyển sang cho con, để đổi mới con, làm cho con sống lại tươi tắn hồng hào hơn. Con chỉ canh tân được đời sống con, canh tân Hội thánh, nếu con liên lỉ chuyển máu Chúa vào huyết quản, vào tim con, thay thế máu xấu của con.

644. Mỗi ngày báo chí chạy bằng tít lớn những câu chuyện giật gân, những biến cố bùng nổ giữa loài người. Con phải hiện diện, phải hồi hộp thao thức với nhân loại. Những thời triệu ấy thúc đẩy con xây dựng một xã hội mới mà báo chí không săn tin nổi: “Xây dựng nước Thiên Chúa, ngay từ trần gian, với phương tiện của trần gian”.

645. Thế kỷ nào cũng có những “biến cố Phúc âm” với những người Chúa Quan Phòng, ban cho thế giới, cho lịch sử: Bênêđitô, Augustinô, Phanxicô, Bênađô, Vincentê, Têrêxa Hài Đồng… Và mỗi lần như vậy các ngài lại khám phá một khía cạnh mới mẻ, thổi một luồng sinh khí mới của Phúc âm đáp lại đòi hỏi của thời đại.

646. Mỗi ngày “Phúc âm hoá” lại trí óc và quả tim con, bằng cách đọc, suy ngắm, say sưa uống lấy lời hằng sống, để từ từ Phúc âm thấm nhuần sâu xa vào mọi tế bào, mọi thớ thịt của con. Đó là canh tân, cách mạng chắc chắn nhất.

647. Với tất cả nỗ lực canh tân của chúng ta,
Với tất cả sách vở, tổ chức, ủy ban, hoạt động, hy sinh,
Với tất cả con người, cơ khí, nhà máy, phi thuyền, vệ tinh, khoa học…
Chúng ta sẽ đi về đâu?
Đời chúng ta có ý nghĩa gì?
Ai giải đáp được?
Nếu chúng ta không nhìn lên Chúa, là nguồn hy vọng cho đời ta luôn luôn mới mẻ an vui.

648. Luôn bắt đầu lại, luôn thăng tiến bản thân. Đừng vội dừng chân, an nghỉ nếu mỗi ngày của ta không phải là một bước tiến lên trong sự kết hiệp với Thiên Chúa… Hãy biến đời con thành một cuộc leo núi.

649. Kể từ hôm nay, từ nét mặt, cử chỉ con, từ sự thinh lặng, hành động con, từ quả tim, tâm hồn con, từ lối sống, cách chết của con, phải toả ra ánh sáng Chúa hiện diện trong con, qua những nơi con đi, và những người con gặp.

650. Nếu chỉ “giữ đạo”, con chưa canh tân. Ma quỷ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế giới và lôi thế giới ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến cho thế giới và đưa thế giới về với Chúa.

651. Vì một lý tưởng, người ta có thể hy sinh tất cả. Muốn phục vụ công ích, phục vụ nhân loại thực sự, một Kitô hữu, mỗi cộng đoàn phải sống vì một lý tưởng: tin ở Thiên Chúa.

652. Hàng rào kiên cố nhất không phải là chiến lũy, không phải là hàng rào điện tử, nhưng là “hàng rào hờ hững” của con: “Ai chết mặc ai! Ai đói khổ mặc ai! Sụp đổ, thoái hoá cũng mặc! Như thế được rồi!” làm sao vượt nổi!

653. Canh tân xã hội bằng con người đã được canh tân trung thực theo Phúc âm. Đức tin sẽ đem lại một giá trị mới cho công việc bổn phận. Người ta không biết rõ họ, không nghe họ nói, nhưng người ta công nhận có sự gì đổi mới, vì tự nhiên thấy nếp sống đẹp hơn, bầu không khí phảng phất hương vị mới lạ.

654. Không phải bước nhanh, bước gấp, nhưng bước vững, con mới tiến ra. Không phải hô hào thúc đẩy cho thế giới tiến, nhưng chính con phải khởi sự tiến lên.

655. Đức Phaolô VI đã vạch rõ muốn canh tân thế giới ngày nay phải loại bỏ:
1. Thuyết thế gian hoá: chỉ xem hạnh phúc trần thế là cùng đích, tôn thờ khoái lạc, của cải, quyền thế…
2. Thuyết tục hoá: không còn chấp nhận giá trị của hy sinh, khiêm nhượng, nhẫn nại…
3. Thuyết chính trị hoá: chủ trương chỉ có chính trị mới giải quyết được mọi vấn đề: Công lý, hoà bình phát triển.

656. Cuộc đời con chỉ là một chuỗi liên tục: giờ ngủ, giờ thức dậy, giờ ăn, giờ học, giờ công sở, giờ lao tác, giờ giải trí, giờ tivi, giờ đọc báo. Nếu không có yếu tố gì thống nhất đời con, yếu tố cần thiết độc nhất, thì đời con thật là nhàm chán, rời rạc. Yếu tố ấy là Tình yêu Thiên Chúa. Đời con sẽ đổi mới hẳn. Tất cả hoạt động của con từ đây là những nét biểu lộ chứng tích của Thiên Chúa trong con.

657. Con hãy hợp tác để tạo nên “mùa xuân mới” cho Hội thánh. Con hãy chuẩn bị các tâm hồn để đón nhận “một lễ Hiện xuống mới” trong Hội thánh. Con hãy nên cánh cửa mở rộng để đón làn gió mát dịu ngập tràn, làm tươi sáng Hội thánh.

658. Nếu con không tiến lên trên đường Hy vọng, không nhắm đến sự thánh thiện, con không phải là thế hệ trẻ, cũng chẳng phải là thế hệ già, con thuộc về thế hệ chết. Lạ lùng và hấp dẫn biết chừng nào! Giữa thời đại trụy lạc, khơi dậy một thế hệ thánh! Chúa muốn vậy, con không muốn sao?

659. Canh tân đòi hỏi can đảm. Canh tân đòi hỏi quyết định:
Trước bao nhiêu đau khổ,
Trước tiếng gọi của Thiên Chúa,
Con đừng hững hờ giả lơ,
Hãy nên một tông đồ dấn thân cho công cuộc canh tân, dĩ nhiên với nhẫn nại, hy sinh và chỉ vì mến yêu Hội thánh.

660. Động lực và tác giả mọi cuộc canh tân trong Hội thánh là Chúa Thánh Thần, “Đấng canh tân mặt đất”. Mọi cuộc canh tân phải là một lễ Hiện xuống mới và không thể có lễ Hiện xuống mới ngoài Chúa Thánh Thần. Con không thể canh tân ngoài Chúa Thánh Thần.

661. Cập nhật hoá! Con phải cố gắng không ngừng để mỗi ngày con đổi mới, để máy thu thanh của thế gian bắt được làn sóng Tin Mừng do con phát ra, đem tiếng con vào tận mỗi tâm hồn, mỗi gia đình. Con hãy nên người của thời đại.

662. Canh tân là thích nghi Phúc âm với thế giới hôm nay. Không phải giảm bớt sức mạnh của Phúc âm, nhưng Hội thánh trình bày Phúc âm cho người thời đại với ngôn ngữ của thời đại, vì nếu Hội thánh không đến với nhân loại, thì nhân loại không đến với Hội thánh.

663. Con quan tâm đến tất cả những gì liên quan đến cuộc cách mạng thế giới hay là con khép kín trong góc thế giới riêng của con? Với từng viên gạch nhỏ, con nhẫn nại xây dựng một xã hội mới hay con cứ chỉ trích theo lối tiêu cực cố hữu?

Kitô hữu đừng buồn như những người không hy vọng


664. Người lạc đường, thất vọng; người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha nhân từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng.

665. Đối với người không biết đích, giờ chết là giờ thất vọng, vì mất tiền tài, mất khoái lạc, mất bằng hữu; trước mặt họ, toàn tối tăm, tư vô sụp đổ. Đối với con, cuối đường Hy vọng tràn ngập ánh sáng.

666. Con nhìn thấy những giọt nước lã chã rơi trong một chiều đông. Mỗi ngày bao nhiêu người cùng vào cõi đời đời, như hạt nước kia không ai để ý, và một giây phút nào đó, một hạt nước rơi ấy chính là con.

667. Người ta hối tiếc và than van: “Đời tàn”. Ngược lại, con phấn khởi và reo lên: “Niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô sắp đến”.

668. Người đời nói: “Mỗi ngày gần mồ thêm một bước”. Con phải nói: “Mỗi ngày gần cửa Thiên đàng hơn một bước”.

669. Người đời cho là “chết”, con phải kể là “sống”. Người đời gọi là “hơi thở cuối cùng”, con phải gọi là “cuộc đời mới”. Người đời gọi là “chấm dứt”, nhưng đối với con là “khởi sự”.

670. Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn.

671. Nghe tiếng cha mẹ đến, đứa bé ở nội trú bỏ tất cả, không tiếc một cái gì để chạy theo cha mẹ. Con đừng dính bén bất cứ đồ vật gì ở nơi tạm trú này.

672. Biết trần gian là nơi tạm trú, sao con còn bo bo dành cho được sở này, chức kia, tiếc nuối chiếc bàn, chiếc ghế…? Con sẽ mang nó vào thiên đàng “hưởng phúc đời đời” sao? Phi lý và điên khùng!

673. Một lời kinh gây tin tưởng cho con cái Chúa, nhưng vì quá quen, quá thường, con không ý thức tất cả ý nghĩa thế mạt, mà chỉ người công giáo được mặc khải: “Hằng sống, hằng trị muôn đời, Amen”.

674. Trước muôn ngàn thử thách đau khổ, con hãy sốt sắng, tin tưởng và đọc nhiều lần: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Đó là bí quyết can đảm của người Kitô hữu.

675. Nhìn bao nhiêu thân ngọc, mình ngà, minh tinh, hoa hậu đã chịu số phận thối tha, hư nát, con hiểu được tiếng “hư vô” và con tự rút lấy bài học.

676. Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đổi “của thiệt” lấy toàn “đồ giả”.

677. Trên thiên đàng, người tông đồ mới thôi lao nhọc. Nhưng ngay ở thiên đàng người tông đồ vẫn tiếp tục cứu giúp trần gian.

678. Người tông đồ không chết, sự sống không tiêu diệt, chỉ biến đổi: “Quả thế, hiện giờ ta thấy, nhưng ở trong gương, cách mường tượng. Bấy giờ thì tận mắt, diện đối diện” (1Cr 13,12).

679. Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, con hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: “Và Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”.

680. Con cảm thấy an ủi vì Đấng đoán xét con là Cha nhân từ. Ngài càng chí công, con càng vững lòng, vì Ngài xử con theo sự yếu đuối của con, nhưng đừng lạm dụng lòng nhân lành Chúa để khuyến khích mình liều lĩnh trong tội lỗi.

681. Chúa gọi con làm thánh, nếu con chấp nhận vào luyện ngục, con đã phụ tình yêu của Chúa.

682. Giữa những thử thách bên trong bên ngoài khủng khiếp nhất, con hãy nhớ lời sách Khải huyền: “Và Người sẽ lau sạch nước mắt họ; chết sẽ không có nữa; phiền muộn, kêu gào và khó nhọc sẽ không còn nữa, vì các điều cũ đã qua!” (Kh 21,4).

683. Luxia, Giaxinta, Phanxicô đã trông thấy hoả ngục vô cùng rùng rợn kinh khủng và không bao giờ quên được cảnh tượng ấy. Hãy tin lời Đức Mẹ! Đừng nhắm mắt không tin có hỏa ngục để rồi một hôm mở mắt thấy mình trong hỏa ngục.

684. Máy điện tử tối tân nhất tên là “muôn đời”. Con hãy dùng nó để chọn quyết định quan trọng nhất của đời con.
Muôn đời thù ghét trong hỏa ngục?
Muôn đời yêu thương trên thiên đàng?

685. Thái độ chấp nhận cái chết của giáo dân thời sơ khai là cả một cuộc cách mạng. Chứng tích ấy khiến thế giới La Mã phải tin ở tình yêu Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu.

686. Nhìn cuộc đời chóng qua không phải để yếm thế, bi quan, buông trôi… Nhưng để phấn khởi, hăng say, tranh đua với thời gian. Người ta bảo thời giờ là vàng, con hãy xác tín: thời giờ là thiên đàng, thời giờ là tình yêu.

687. Cái gì không mang nhãn hiệu “muôn đời” là đồ giả.

688. Hạt lúa gieo xuống đất không chết, nhưng sẽ phát sinh sự sống phong phú mới mẻ hơn. Hạt gạo nấu thành cơm nuôi nhân loại cũng không “chết”, nhưng tươi nở trong một cuộc sống khác đẹp hơn, cao quý hơn.

689. Từ đây, trên các vòng hoa phúng điếu xin con đừng để hai chữ “phân ưu” nữa, trong các thư từ con đừng để hai chữ “quá cố” nữa, vì họ “đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại” và đang “hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.

690. Đối với Kitô hữu, không có người chết. Tất cả các kẻ chết của chúng ta vẫn đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi thông hiệp với nhau trong đức tin.

Tránh gian khổ, con đừng mong làm thánh

 

691. Bão tố bẻ gãy cành khô, cành sâu. Nhưng đừng tiếc những cành ấy, dù không gió cũng gãy, không gãy cũng phải chặt vì chúng làm hại.

692. Chúa Giêsu đến đâu cũng có một số người sống chết cho Ngài, và cũng có một số người quyết giết chết Ngài. Sao con muốn mọi người yêu con? Sao nao núng khi có người ghét con?

693. Đường con đi có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy… chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, như Cyrillô, như Athanasiô, đừng mất giờ dừng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen.

694. Khi đau khổ cực độ, con hãy nhìn lên Thánh giá, ôm choàng lấy Thánh giá và con sẽ thinh lặng đứng vững như Đức Mẹ.

695. Giữa những thử thách, con hãy nghĩ gian khổ sánh sao được với nước thiên đàng. Đó là phương pháp của Chúa: “Phúc cho ai khó nghèo, ai khóc lóc, ai chịu bắt bớ… vì nước thiên đàng là của mình vậy” (x. Mt 5,3-10).

696. Người ta vô ơn với con! Con làm ơn để họ cám ơn sao?

697. Con than phiền vì kẻ nghịch của con liên lỉ chen lấn, giành giựt gây trở ngại cho công việc tông đồ của con? Sao con quên dụ ngôn “Cây lúa và cỏ lùng” (x. Mt 13,24-30)? Lúa cứ vươn lên!

698. Hoạt động con bị hạn chế, danh tiếng con bị lu mờ, chống đối dồn dập tứ phiá! Hãy đợi chờ giờ của Chúa: “Nhánh nào sinh quả, thì Người tỉa sạch, để nó sinh quả nhiều hơn” (Ga 15,2), cành non sẽ đâm chồi nở hoa, mang trái nặng trĩu hơn.

699. Trong giờ Tử nạn, Chúa đem theo những Tông đồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê (x. Mt 26,37-38). Con sợ Chúa thương không?

700. Trong gian khổ có ba điều con nên tránh:
– Đừng điều tra “tại ai?” Hãy cám ơn dụng cụ nào đó Chúa dùng thánh hoá con.
– Đừng than thở với bất cứ ai. Chúa Thánh Thể, Đức Mẹ là nơi con tâm sự trước hết.
– Khi đã qua, đừng nhắc lại và trách móc, hận thù. Hãy quên đi, đừng nhắc lại bao giờ và nói: Alleluia!

701. Con tức tối vì không biện minh được với kẻ thù. Đừng lạ gì: “Chúng đã bắt bớ các tiên tri, tiền bối của các ngươi” (Mt 5,12).

702. Tránh gian khổ con đừng trông làm thánh.

703. Chúa đã dùng gian nan đau khổ để rèn luyện chúng ta hầu ta biết thông cảm với những người đau khổ. Như Chúa Giêsu đã cầu cho nhân loại với tiếng thống thiết và nước mắt (x. Dt 5,7).

704. Trên thiên đàng con sẽ tiếc: “Phải chi tôi đã có thêm nhiều dịp mến Chúa và chịu khó vì Chúa hơn!”

705. Đau khổ nhất là do những người phải thông cảm và có phận sự bênh vực con gây nên. Hãy hiệp với Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thánh giá: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi! Nhân sao Người lại bỏ tôi?” (Mt 27,46).

706. Đau khổ không những giúp con can đảm nhẫn nại, nhưng còn có giá trị cứu chuộc rất lớn lao, nếu con hiệp với sự thương khó Chúa Giêsu.

707. Nếu thể xác con căng thẳng, hãy tạm nghỉ. Gác bỏ các lo âu, con sẽ lấy lại sức và công việc sẽ kết quả hơn. Chấp nhận giới hạn sức khỏe của con là can đảm, biết săn sóc sức khỏe là khôn ngoan.

708. Thời gian là một yếu tố quan trọng. Khi một biến cố xảy đến, đừng hấp tấp, lúng túng. Hãy suy nghĩ, nhẫn nại đợi chờ, lắm lúc sau một đêm, con sẽ thấy sự việc khách quan và sáng suốt hơn.

709. Một bác sĩ nói: “Ai thuê tôi săn sóc bệnh nhân một vạn đồng một ngày, tôi cũng không nhận!” – Nữ tu đáp: “Thưa Bác sĩ, phần tôi, nếu không phải vì mến Chúa, một triệu đồng một giờ tôi cũng không chịu. Nhưng vì Chúa tôi sẽ ở đây đến chết”.

710. Gian khổ là cơm bữa của đời người. Nhưng đối với người công giáo, cuộc sống của họ “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại”. Con có sung sướng khi đọc lời ấy không?

711. Hành động tốt và thinh lặng.

712. Con phản đối: “Bất công!” – Lòng con tức tối trước việc xảy đến gây khổ tâm cho con. Hãy nghĩ lại xem: Chúa Giêsu đã làm gì nên tội mà phải chịu đóng đinh? Như thế có công bình không?

713. Hoa hồng, hoa huệ chỉ tốt thơm, rực rỡ, khi phân tro màu mỡ biến thành hương sắc. Việc tông đồ cũng tiến mạnh khi gian khổ được đổi thành yêu thương.

714. Thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa:
“Nếu ai muốn theo Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá và hãy theo Ta” (Mt 16,24).

715. Không có cơn thử thách nào lớn lao bằng cơn thử thách của Chúa Giêsu trên Thánh giá. Lúc xác hấp hối, tâm hồn lại cảm thấy chính Đức Chúa Cha hầu như cũng bỏ rơi mình, Chúa Giêsu phải nói lên nỗi khổ ê chề nhất trong đời Ngài: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi! Nhân sao Người lại bỏ tôi?” (Mt 27,46). Hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu trong những giây phút hãi hùng, tối tăm nhất của đời con. Bình an sẽ trở lại và con sẽ nói được như Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con ký thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).

716. “Các ngươi có thể uống chén Ta uống, và chịu thanh tẩy, thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mt 10,38). Con hãy thưa: “Con tình nguyện uống chén đắng đến giọt cuối cùng vì là chén đắng của Thầy, vì Thầy đã uống trước con!”
Chén càng đắng càng đầy, chứng tích tình yêu của con càng rõ rệt. Càng muốn cho con chia sẻ chén đắng, Chúa càng yêu thương tín nhiệm con.

717. Gian khổ nặng nề nếu con khiếp sợ trốn lánh, gian khổ dịu dàng nếu con can đảm tiếp nhận.

Điều kiện vào Nước trời: Trở nên như trẻ thơ


718. Người mồ côi được sung túc phú quý là người hạnh phúc, nhưng không phải là người con hạnh phúc. Nghèo khổ mấy mà có cha yêu, mẹ mến là người con hạnh phúc. Con có ý thức mình vô cùng hạnh phúc vì làm con Chúa, con Mẹ Maria không?

719. Khi xin điều gì, người ta khai khả năng và công trạng… Nhưng em bé chỉ khai cách đơn sơ: “Con là con ông… con bà… ở trên xóm…”. Đó là tất cả đơn từ của nó. Con hãy hiên ngang và cầu nguyện như vậy: “Con là con Chúa, con Đức Mẹ…”.

720. Đứa bé đến quán mua hàng cho mẹ, quán đã đóng cửa, nó gõ, gõ mãi, chủ quán tức tối, mở cửa, sẵn sàng mắng một trận, nhưng thấy em bé đơn sơ, chủ chịu thua và tươi cười âu yếm: “Tội nghiệp, con giỏi quá, đi đâu giờ này?”… và nó được tất cả. Hãy sống như trẻ thơ!

721. Trẻ con không cần biết cha mẹ giàu hay nghèo, chỉ biết có cha mẹ là đủ. Dù có bom đạn, dù có đói rách hiểm nguy, miễn là có cha mẹ, trẻ ngủ thiếp đi bằng an. Nó nương náu nơi tình yêu hầu như toàn năng của cha mẹ. Con hãy phó thác như vậy!

722. Bé con lầm lẫn bao nhiêu lần, cha mẹ cứ thương vì biết đứa bé không có lòng xấu. Nó dốc lòng mãi và nó sa ngã mãi. Không hề gì! Chỉ cần thiện chí của nó. Mặc dù yêu cha mẹ, nhưng nó yếu đuối, không làm gì được: “Con đừng dại nữa nghe con! …” – “Dạ” – “Con thương ba má ngàn lần không?” – “Có” – “Vạn lần không?” – “Có” – “Triệu triệu lần không?” – “Có” – Chúa chỉ cần thiện chí của con. Ơn Chúa sẽ giúp con.

723. Khi cầu nguyện, con đừng ngại xin Chúa, nhưng cứ đơn sơ thành thật, như đứa bé: biết được yêu thương, nó xỏ tay vào túi áo cha, mở xách của mẹ để kiếm quà. Chúa không nói dụ ngôn “đứa con xin cha bánh và cá” sao? (x. Mt 7,9-10).

724. Con mệt quá, con cầm trí lâu không được, con chán nản. Không sao, miễn con yêu mến Chúa là đủ. Đứa bé chơi trước mặt cha mẹ, ngồi trên chân cha mẹ, hay nhìn cha mẹ, hoặc ngủ ngon lành, cha mẹ cũng sung sướng nâng niu nó.

725. Trẻ con không trốn tránh cha mẹ, không dối trá khi lỡ lầm, hay làm hư hỏng đồ vật trong nhà. Ngược lại, nó khóc và tìm cha mẹ mà mách tội nó. Thay vì tiếc của, trách phạt con, cha mẹ lại ẵm lấy, an ủi dỗ dành, quý con hơn tiếc của. Con hãy khiêm tốn và thành thực với Chúa như vậy.

726. Cha mẹ xin kẹo của em bé, nó thu tay lại, nó không cho, cha mẹ năn nỉ, nó còn tiếc… Sau cùng, nó đưa tay ra, mở tay dần dần và cho cha mẹ. Cha mẹ vui mừng, hôn con vì nó đã quảng đại, thắng tính ích kỷ và cho con thêm nữa. Chúa vui sướng vì những hy sinh nhỏ mọn của con.

727. Sống tinh thần con Chúa không phải là ủy mị, thụ động, nhưng là một linh đạo:
Dễ dàng trong sự khó khăn,
Đơn sơ trong sự phức tạp,
Dịu dàng trong sự cương quyết,
Hùng dũng trong sự yếu đuối,
Khôn ngoan trong sự điên dại.
“Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không hoán cải mà nên như trẻ nhỏ, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời” (Mt 18,3).

728. Tâm hồn trẻ con không biết căm thù: vừa bị cha mẹ sửa phạt, nó khóc lóc, nhưng quên liền, rồi lại thiu thiu ngủ trên tay vừa đánh phạt nó. Con hãy quên tất cả bực tức, ác cảm. Ở trên tay dịu hiền của cha mẹ, con hạnh phúc quá rồi!

729. Hãy bạo dạn vì chính ơn Chúa là điều kiện để nên thánh. Bạo dạn như trẻ thơ, vui tươi chấp nhận ý Chúa, sẵn sàng theo ý Chúa bất cứ đến đâu, yêu mến Chúa tận tình. Trẻ thơ sẵn sàng lên mặt trăng, tình nguyện đi phi thuyền, miễn là có sự hiện diện của cha mẹ.

730. Tâm hồn trẻ thơ đây không phải là thơ ngây. Nhưng là yêu thương không giới hạn, phó thác cho cha mẹ tất cả. Cha mẹ bảo gì làm tất cả, theo cha mẹ bỏ tất cả, tin tưởng cha mẹ hơn tất cả. Hùng dũng, vững vàng, xứng đạo làm con Chúa.

731. Con trẻ không giữ gì riêng, ai cho gì, nó cũng giao cho cha mẹ. Hãy phó thác cho Chúa và Đức Mẹ, con sẽ được an toàn hạnh phúc.

732. Những công tác lớn lao nhất của con nào đáng gì đối với Chúa toàn năng, thế mà cả những việc nhỏ mọn nhất của con cũng có thể là những kỳ công, vì Chúa thấy lòng con. Chúa yêu thương con, như lòng cha mẹ hạnh phúc khi thấy đứa bé bước một bước, bập bẹ một tiếng.

733. Chúa Thánh Thể và Mẹ Maria là bí quyết sức mạnh con trên đường Hy vọng. Tất cả các tinh tú dù sáng láng, bao la đến đâu cũng không sánh với quả đất nhỏ hẹp này được.

734. Thời gian là của Chúa, muôn vật là của Chúa, Ngài là Alpha và Ômêga, căn nguyên và cùng đích. Ngài toàn năng, cao cả, nhưng đồng thời chăm sóc chim trời, cá biển, thú rừng, hoa đồng nội và đếm hết tóc trên đầu con; Chúa chỉ kể tình yêu. Bình an và hạnh phúc cho tâm hồn nhỏ bé biết khao khát yêu thương vô tận.

735. Chúng ta quan niệm đường vào Nước Trời khó khăn, phức tạp quá! Chúa Giêsu chỉ đặt một điều kiện: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không hoán cải mà nên như trẻ nhỏ, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời” (Mt 18,3).

736. Nghe nói phó thác tất cả trong tay Chúa, con đừng lo sợ. Không khó đâu! Mặc dù con không biết Chúa Kitô đưa con đi đâu, dành cho con những bất ngờ gì, chỉ tin Chúa là Cha của con, chừng ấy đủ rồi! (x. Mt 6,31-32).

Bác ái, đồng phục của người Kitô hữu


737. Trước khi xét đoán ai, con hãy cầu nguyện rồi hãy làm như Chúa Giêsu trong trường hợp con.

738. Khi con đi công tác cho Đức Mẹ xa nhà con cả cây số, chưa chắc con đã sống bác ái thật. Chừng nào con dám công tác bên cạnh nhà con, đến với những người nghe thấy con mỗi ngày, cha mới tin con bác ái thật!

739. Phàn nàn là một bệnh dịch hay lây, triệu chứng: bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa.

740. Ký sổ vàng, mua vé số, cho áo quần cũ có khi đó chỉ là những việc bác ái để khỏi bị quấy rầy! Yêu thương mới là khó. Hãy để lòng con trong sổ vàng, trong vé số, trong gói quần áo cũ!

741. “Tôi không làm việc bác ái được, vì tôi không có tiền!” Chỉ có tiền mới bác ái sao? – Bác ái bằng nụ cười, bác ái bằng bắt tay, bác ái bằng thông cảm, bác ái bằng thăm viếng, bác ái bằng cầu nguyện.

742. Đừng đợi gần chết mới làm hòa với nhau. Đừng để gần chết mới phân phát của cải. “Bác ái chẳng đặng đừng”, “Bác ái bất đắc dĩ”. Con sẽ tiếc vì yêu thương quá chậm.

743. Người ta không cần của con, không cần con cho, bằng cần con hiểu họ, thương họ!

744. Đừng tức tối vì người ta chỉ trích con, hãy cám ơn vì còn bao nhiêu tồi tệ mà họ chưa nói.

745. Sống huynh đệ rất tốt đẹp, Chúa bảo: “Đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì Ta ở giữa họ” (Mt 18,20). Chúa biết khó nên Ngài đòi số tối thiểu, Ngài không đòi hơn “hai hay ba”.

746. Cuộc sống huynh đệ thử thách và nâng đỡ tình bác ái như cây trên rừng che đỡ nhau khỏi ngã lúc gió bão.

747. Con không lường được người say rượu có thể làm hại đến thế nào: đâm chém, đốt nhà, giết người… Khi con say vì đam mê hận thù, con càng mất sáng suốt hơn thế nữa.

748. Chúa chỉ bắt các tông đồ mang một đồng phục rẻ tiền mà khó kiếm: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau!” (Ga 13,35).

749. Đâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa; đâu có thù ghét, ở đó có hoả ngục.

750. Lấy lý do giúp đỡ, khuyên bảo anh em, để dò chuyện bên này đem nói bên kia, đó là “bác ái tình báo”.

751. Trong một giây, bằng một chấm phết, bất cứ ai cũng có thể bôi nhọ bức họa vô giá của Raphael, đã tốn bao công phu thời giờ mới thực hiện nổi, nhưng ai làm lại được?

752. Chúa nói: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ, và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, mà đi làm hòa với anh em ngươi trước đã, rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi” (Mt 5,23-24). Còn con, con làm ngược lại: cứ dâng lễ và phóng thanh cho mọi người biết, trừ ra gặp mặt đương sự. Tin mừng
của con!

753. Con chủ trương phải đối thoại, nhưng con không chấp nhận ai nói trái ý con. Đó là “đối thoại có chương trình và giới hạn” hay nói đúng hơn: hai người độc thoại.

754. Con cho là phi lý, khi một lao công chỉ trích đòi dạy kỹ sư, kiến trúc sư xây cầu, làm nhà, một y công chỉ trích đòi hướng dẫn bác sĩ giải phẫu. Sao chính con lại chỉ trích cấp trên, nắm được nhiều yếu tố, có nhiều khả năng, nhiều kinh nghiệm, nhiều cố vấn và nhiều ơn Chúa hơn con.

755. Hãy yêu thương nhau không bằng lời nói mà bằng việc làm. Hãy yêu thương nhau bằng tay mặt mà tay trái không biết. “Các con hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các con” (Ga 15,12).

756. Có loại bác ái ồn ào: Bác ái phóng thanh.
Có loại bác ái kể công: Bác ái ngân hàng.
Có loại bác ái nuôi người: Bác ái sở thú.
Có loại bác ái khinh người: Bác ái chủ nhân.
Có loại bác ái theo ý: Bác ái độc tài.
Bác ái nhãn hiệu, bác ái giả hiệu.

757. Lời bất công của người công chính vô cùng ác hại. Đó là thuốc độc do tay bác sĩ trao. Toa thuốc ấy càng truyền ra, càng giết người.

758. Người tu hành chỉ còn một của riêng là danh tiếng. Ai phạm đến danh tiếng họ là ám sát họ.

759. Nếu con chỉ khen người khen con, chỉ chấp nhận người không phản đối con, giao tiếp với người đồng ý kiến với con, con không bác ái cũng không sáng suốt: mù dắt mù.

760. Cộng đoàn nào có một “thánh tu hành” thì thánh ấy hay làm cho cộng đoàn có nhiều “thánh tử đạo”.

761. Đặt mình vào địa vị kẻ khác, con sẽ thấy những lời tuyên bố long trọng và vô trách nhiệm của con hớ hênh quá và con sẽ dè dặt dần.

762. Nói dễ, làm khó, ai cũng chê hiện tại, ai cũng tiếc quá khứ, ai cũng hoan nghênh chương trình của mình về tương lai. Nhưng khi tương lai của con thành hiện tại, con lại cấm người ta phê bình!

763. Tính xấu của tôi, tôi cho là nhân đức. Thiện chí của anh em, tôi gọi là khuyết điểm.

764. Con không thiếu khuyết điểm, sao con tức tối và tấn công khuyết điểm của anh em?

765. Yêu người là “trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng mến Chúa” của con.

766. Yêu người không phải là vuốt ve nuông chiều họ, nhưng có lúc yêu người là làm phiền lòng họ, vì sự thật và vì lợi ích của họ.

767. Chúa Giêsu không dạy yêu người “bằng tình cảm”, vì Chúa dạy con yêu cả kẻ nghịch của con. Yêu là thành thực muốn sự lành cho họ và làm tất cả để họ được hạnh phúc. Điều ấy đòi buộc con phải hoàn toàn quên mình.

768. Con phải là “món quà” trong tay Chúa, sẵn sàng để Chúa tặng cho bất kỳ ai. Một món quà mà ai cũng quý yêu thèm muốn.

769. Sự lầm lạc lớn nhất là không biết những người khác là Chúa Kitô. Có nhiều người tận thế mới vỡ lẽ!

770. Trong cá tính nhân cách mỗi người, không có hai người giống nhau. Đừng vơ đũa cả nắm. Đời người không phải là “cuộn băng cát-xét” đã được sang từng “xê-ri” giống nhau.

771. Chúng ta phải biết cám ơn lẫn nhau:
Người nhận: vì được yêu thương giúp đỡ.
Người cho: vì được dịp lớn lên trong tình yêu.

772. Tại sao ngày nào con cũng lập tòa án và bắt anh em con diễn hành lần lượt qua đó? Tại sao lúc nào cha cũng thấy con ngồi ghế quan tòa, không bao giờ ngồi băng bị can?

773. Thay “nụ cười ngoại giao” của con bằng “nụ cười chân thành Kitô hữu”.

774. Các việc từ thiện, xã hội rất cần và rất tốt, nhưng với thời đại nguyên tử, có thể nói được rằng: chúng ta chưa yêu thương đích thực, khi chúng ta chưa dấn thân đòi hỏi, sáng tạo, biến đổi những cơ cấu ngăn chặn sự giải phóng con người, để làm cho con người sống
“người hơn”.

775. Nếu Thiên Chúa chỉ dạy mến Chúa thì hay quá! Nhưng Ngài thêm luật yêu người, cũng trọng bằng luật mến Chúa thì vô cùng rắc rối, phức tạp cho nhiều người!

776. Tại sao con ghi khắc khuyết điểm của anh em vào bia đá, còn tội lỗi của con thì viết trên cát?

777. Môi trường đòi buộc con thinh lặng hoạt động, con cứ thích nghi theo môi trường và đi đến đâu con hãy “gieo rắc tình yêu”. Con sẽ ngạc nhiên, vì một ngày kia, nhìn lại những nơi con đã đi qua, hạt giống tình yêu đã nặng trĩu gấp mười, gấp trăm, nơi tâm hồn những người Chúa Quan phòng định cho gặp con trên đường hy vọng.

778. Hạnh phúc cho một huynh đệ đoàn là gì? Là: “Phúc cho những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính” (Mt 5,10). Đúng vậy! Đây là một cuộc bắt bớ có tổ chức, có thời khóa biểu, có luật lệ, nhưng sự bắt bớ này đem lại ơn cứu chuộc, vì đặt con trong ý nghĩa của lịch sử và của Hội thánh là xã hội hóa trần gian.

779. Một huynh đệ đoàn đích thực là một cộng đoàn hiệp nhất; nó không nguyên tử hóa, nhưng ngược lại nhân vị hóa con người.

780. Ngày xưa tu đức là ăn chay, đánh tội, thức khuya, dậy sớm, sống thinh lặng. Ngày nay tu đức là sống giữa huynh đệ đoàn: hội họp, trao đổi, hợp tác…

781. Mỗi chiều tối, trước lúc lên giường ngủ, con phải nói được rằng: “Suốt ngày hôm nay, tôi đã yêu thương”.

782. Những ai tổ chức vu cáo, thóa mạ, xúi giục căm thù, chống đối, dù với mục đích nào, cũng không che dấu được tính cách phản Phúc âm, vì Chúa là tình yêu.

783. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết trên đó đức tính của người mà con bất bình, con sẽ thấy họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ từ đầu.

784. Sao con trách móc khi người ta phụ ơn con? Công nghiệp của con mất đi sao? Hay là con bắt Chúa cám ơn con? “Những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các ngươi đã làm cho chính mình Ta” (Mt 25,40).

785. Tại sao con hà tiện một tiếng khen? Tiếc nuối một nụ cười, một siết tay với người ta? Bao nhiêu người không cần bạc tiền, chỉ cần lòng con.

786. Nếu các công việc từ thiện xã hội của con không phải vì Chúa, thì con chỉ là nhân viên của một chi nhánh Hồng thập tự.

787. Bác ái không có biên giới, nếu có biên giới không phải là bác ái nữa.

788. Khi con giúp ai điều gì, phải hết sức bác ái, để người thụ ân tha thứ cho con cái nhục họ chịu khi nhận của con.

789. Thường Chúa Giêsu làm phép lạ rồi dặn đừng cho ai biết. Có nhiều người chưa làm phép lạ mà đã cho mọi người biết mình bác ái.

790. Đừng phàn nàn cà phê đắng, chỉ tại đường của con không ngọt đủ.

791. Một bộ máy dù tinh vi và kiên cố đến đâu, nếu các bộ phận khô dầu cũng hư hỏng. Hãy rót dầu bác ái của con vào để máy chạy điều hoà không sứt mẻ.

792. Bác ái là nối dài tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại.

793. Con phải nói được cách thành thực rằng: “Tôi không xem ai là kẻ nghịch của tôi, kể cả những người căm thù tôi nhất, những người bắt bớ tôi, thề không đội trời chung với tôi. Tôi luôn luôn xem họ là anh em tôi”.

794. Con tốt, người ta nói con xấu, con vẫn tốt. Con nghèo, người ta khen con giàu, con vẫn nghèo. Tại sao con lên ký và sút ký theo dư luận.

795. Người ta thuê đăng báo để tâng bốc những tài năng tưởng tượng của mình, để tuyên truyền cho mình những công trạng bịa đặt, để chụp mũ đối phương những tội ác dựng đứng. Con cũng muốn mà mắt Thiên Chúa như thế sao?

796. Tu sĩ sống thánh nhờ nhiều việc đạo đức riêng: ăn chay, hãm mình, luật dòng, tĩnh tâm. Giáo dân chỉ có một phương thế: sống thánh là bác ái.

797. Bác ái là tu đức liên lỉ: tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan, tu bộ óc… Tất cả con người con vẫy vùng, nhưng con phản ứng yêu thương, như Chúa Giêsu.

798. “Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở” (Ga 14,2). Lời Chúa rất là thấm thía! Con hãy đối xử với mỗi người khác nhau, kính trọng từng tâm hồn. Đừng xem con người như một con số, một khối lượng, cộng lại là ra đáp số! Đối với con người không phải hai cộng hai là bốn luôn. Hai quả dưa với hai quả dưa có lúc là bốn ký, nhưng có lúc phải sáu quả mới được bốn ký.

799. Bác ái liên kết con người thành một cộng đồng làm phát sinh những mối tương quan mới. Có tương quan mới, sẽ có thế giới mới.

800. Bác ái không phải chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo một bầu không khí mới giữa cộng đồng làng xã, cộng đồng quốc gia, công đồng quốc tế.

801. Biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa.

802. Không ghét ai chưa đủ, thương người chưa đủ, giúp người chưa đủ. Hiệp nhất trong tình yêu và hành động mới đủ. Chúa Giêsu cầu xin: “… Để hết thảy chúng nên một, cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17,21).

803. Chúa Giêsu bị bỏ rơi trên Thánh giá, Chúa Giêsu còn bị bỏ rơi trong mỗi anh em đau khổ khắp nơi trên thế giới.

804. Ngày tận thế Chúa phán xét về đức ái, không phải về các thành công vĩ đại.

805. Đừng đê hèn nói xấu người vắng mặt. Hãy nói như thể lời con được ghi âm, hành động như thể cử chỉ con được chụp hình.

806. Nếu không triệt để thi hành chúc thư của Chúa Giêsu, là sống bác ái, thì con là đứa con bất hiếu vô phúc nhất.

Thực hiện cách phi thường những việc tầm thường


807. Việc nhỏ, lòng nhỏ; việc lớn, lòng lớn; Việc lớn, lòng nhỏ; việc nhỏ, lòng lớn. Con hãy thực hành cách sau hết. Trung tín trong việc lớn, dễ; trung tín trong việc nhỏ, khó. Chúa khen kẻ thực hành cách sau này.

808. Theo mắt thế gian, công việc của Đức Mẹ rất tầm thường: giúp đỡ bà Isave, lo lắng cho Chúa Giêsu ở máng cỏ, chu toàn bổn phận ở Nagiarét, đi chầu lễ ở Giêrusalem, chôn cất thánh Giuse, chịu sỉ nhục đau đớn ở Calvariô. Dưới mắt siêu nhiên, đời Đức Mẹ phi thường: Mẹ đã làm tất cả những việc ấy vì yêu mến Chúa Giêsu.

809. Ẵm đứa bé là chuyện thường, nhưng được mẹ ẵm, đối với em bé là hạnh phúc lớn nhất mà em không chịu đổi với bất cứ giá nào.

810. “Bí quyết của đời tôi: chấp nhận tất cả với tâm hồn đơn sơ, có vài tư tưởng tầm thường, nhưng sinh ảnh hưởng sâu rộng” (Gioan XXIII).

811. Không có công việc nào hèn hạ, chỉ có tâm hồn hèn hạ.

812. Với tâm hồn cao cả, việc tầm thường hóa ra cao cả: Ai cho một bát nước lã vì danh Chúa sẽ được thưởng trên Thiên đàng.

813. Muốn được phong thánh, phải chứng minh có “nhân đức anh hùng”. Bền chí làm những việc tầm thường suốt cả cuộc đời vì mến Chúa hẳn là anh hùng, Thánh Têrêxa Hài đồng đã làm như thế.

814. Muốn nên thánh, con hãy làm những việc tầm thường, có khi xem ra vô nghĩa nhất, nhưng hãy đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con.

815. Tìm việc lớn, khinh việc nhỏ, con sẽ lạc đường Hy vọng, vì Chúa hưá cho những ai trung thành trong việc nhỏ được vào hưởng sự vui mừng của Ngài.

816. Nhìn cây cổ thụ sum suê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí tí.

817. Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? – Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, tập luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng.

818. Con bảo đợi lúc nào có thời cơ, con sẽ làm việc vĩ đại; không biết đời con thời cơ sẽ đến mấy lần! Nhưng hãy cướp thời cơ mỗi ngày để thực hiện cách phi thường những việc tầm thường.

819. Thiên hạ mua vé lên đỉnh nhà chọc trời Manhattan, khen ngợi kiến trúc tân kỳ, nhưng mấy ai nhớ đến từng thanh sắt, từng viên sạn, từng hạt cát nhỏ làm nền móng vững chắc cho ngôi nhà ấy.

820. Thử lấy kính hiển vi mà xem: một giọt nước óng ánh hơn kim cương, một con vi trùng ghê tởm rùng mình; đừng khinh những cái nhỏ.

821. Việc nhỏ: nhưng do mồ hôi nước mắt mà quý; việc thường nhưng do tình yêu tha thiết mà trọng. Người con thảo mặc chiếc áo len cũ rích nhưng không chịu đổi lấy bất cứ áo đắt tiền nào khác, vì mỗi mũi len đối với anh ta là một cử chỉ yêu thương của mẹ.

822. Ngày sống của con là một “chuỗi lời nguyện tin yêu cụ thể hóa trong công tác tầm thường”.

823. Một bản nhạc du dương, một bức họa thần tình, một tấm thảm quý đẹp được kết tinh bằng những mũi chỉ, những nét mực, những nốt nhạc đơn sơ, nhưng phải có danh xưng nhẫn nại mới sáng tạo ra tác phẩm.

824. Với năm cái bánh và hai con cá của em bé, Chúa đã làm phép lạ nuôi năm ngàn người (x. Mt 14,17). Chúa vẫn toàn năng, nhưng Chúa yêu thương thiện chí của con.

825. Xin nước bà Samari, mượn lừa cỡi vào Giêrusalem, mượn thuyền ngồi giảng, mượn phòng lập phép Thánh Thể, nhìn đồng tiền bà góa bỏ vào hòm cúng được Chúa chiếu cố đến, chủ nhân đâu ngờ việc không đâu mà mình được hân hạnh đến thế! (x. Mt 21,2; 26,18; Mc 12,43; Ga 4,9).

826. Một việc rất tầm thường có thể tạo được bầu khí “dễ thở”, bầu khí yêu thương mà không tốn của, không mất công, không ai thấy. Nguyệt cầu tốt đẹp cách mấy cũng không ai sống được vì không có “bầu khí thở được”.

827. Trên đường “dâng hiến”, không có việc gì là tầm thường cả. Một cử chỉ nhỏ nhặt nhất vì kẻ khác là một bước đến tình yêu, do tình yêu, là một sự phát triển con người.

828. Chúng ta không biết Chúa, Mẹ Maria làm gì suốt ba mươi năm âm thầm ở Nagiarét; lên thiên đàng chúng ta sẽ hiểu được phần nào.

829. Chúng ta có thể nghĩ rằng ba mươi năm này đầy yêu thương, thông hiệp, hiệp nhất, mà nhân loại không hiểu thấu vì là mầu nhiệm của Tình yêu Thiên Chúa.

830. “Ba mươi năm chi xiết nhìn trông, mấy hồi thầm lặng nói không ra lời”. Giêsu nhìn Giuse, Maria, cha mẹ nhìn Giêsu, cả nhà nhìn lên Chúa Cha. Ba mươi năm hạnh phúc, với những việc tầm thường nhất trong cái nhìn thông hiệp thần linh nhất.

831.”Giả như tôi nói được các thứ tiếng, nhân loại và thiên thần… Và giả như tôi được ơn tiên tri và biết mọi sự nhiệm mầu, toàn cả trí tri; và giả như tôi được tất cả lòng tin, khiến chuyển được đồi núi, mà tôi lại không có lòng mến, thì tôi vẫn là không! Và giả như tôi đem cả gia tư vốn liếng mà phát chẩn; và giả như tôi nộp mình chịu thiêu, mà tôi lại không có lòng mến, thì cũng hư không vô ích cho tôi!” (1Cr 13,1-3). Việc con làm không quan hệ. Cách con làm mới quan hệ.

832. Có hai đường để sống giây phút hiện tại: thực hiện ý con hay thực hiện ý Chúa. Con chọn đường nào?

Lãnh đạo là nô bọc tình nguyện


833. Đường Hy vọng cần người lãnh đạo. Theo tư nguyên, lãnh đạo là người dẫn đường, cũng gọi là thủ lãnh, nghĩa là người làm đầu. Không có đầu suy nghĩ, tứ chi sẽ suy nhược, thiện chí bị phân tán, nghị lực sẽ lụn bại, hỗn loạn sẽ thống trị và công cuộc tan vỡ.

834. Lãnh đạo là người:
Biết – Muốn – Thực hiện
Và đồng thời gây cảm hứng cho kẻ khác:
Biết – Muốn – Thực hiện.

835. Lãnh đạo là phục vụ: phục vụ Thiên Chúa, phục vụ người mình điều khiển, phục vụ công ích. Lãnh đạo là nô bọc tình nguyện.

836. Chúa Giêsu đem lửa đến thế gian và muốn cho quả đất rực cháy. Với chí khí tông đồ, con phải là ngọn lửa đốt cháy những ngọn đuốc khác, làm cho ánh sáng lan rộng đến lúc thế giới thành một biển ánh sáng.

837. Hãy khiêm tốn quảng đại nếu Chúa muốn chọn con lãnh đạo môi trường của con. Đó là sứ mệnh cao cả, quan trọng. Con cần ý thức hạnh phúc của các Tông đồ khi nghe Chúa Giêsu nói: “Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi làm ngư phủ chài lưới người” (Mc 1,17).

838. Con phải tin tưởng vào sứ mệnh của con, cảm hóa kẻ khác và truyền thông cho họ lòng tin tưởng, bầu nhiệt huyết trong con.

839. Nếu không trị được tính bi quan, thái độ thất vọng, thói quen rụt rè, con đừng lãnh đạo.

840. Lãnh đạo là dấu hiệu hữu hình của quyền bính. Người lãnh đạo phải ý thức sứ mệnh chỉ huy của mình, sứ mệnh đại diện cho quyền bính và có bổn phận làm cho kẻ khác trọng uy quyền của mình. Làm như thế là phục vụ quần chúng.

841. Tai họa lớn nhất của con khi lãnh đạo là sợ nói và hành động như một nhà lãnh đạo.

842. Đón nhận mọi ý kiến, nhưng không lệ thuộc ý kiến.

843. Sáng kiến hợp thời và hữu hiệu mới lãnh đạo được.

844. Con hãy dừng ý chí tập trung tư tưởng, can đảm quyết định và quyết định kịp thời.

845. Có vô số ý kiến mà con không quyết định là vô ích. Có ít tư tưởng mà thực hiện tất cả mới là lãnh đạo thực sự.

846. Biết điều con muốn và muốn cách cương quyết. Nếu không cương quyết định đoạt, con sẽ làm các tùy viên tê liệt. Để các tùy viên tự do quyết định, con sẽ gây hỗn loạn.

847. Lãnh đạo là sống kỷ luật, tìm hiểu lệnh trên, khôn khéo hành động theo mệnh lệnh. Lãnh đạo là tìm kiếm phương thế thực hiện và giàu nghị lực để thắng các trở ngại.

848. Việc con chỉ trích cấp trên làm nhụt nhuệ khí, tạo chia rẽ giữa các tùy viên và mở đường cho họ bình phẩm phương pháp, bươi móc khuyết điểm của chính con.

849. Chúa không sinh con để làm đàn cừu, đàn vịt, nhưng để lãnh đạo môi trường của con. Lãnh đạo là thúc đẩy, là lôi cuốn.

850. Muốn lãnh đạo sáng suốt, cần phải biết nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là nghệ thuật cần thiết để tránh nóng nảy, mệt trí, cau có, mất tự chủ, hoảng hốt.

851. Lãnh đạo phải can đảm, có cái nhìn bình tĩnh trước mọi biến cố, ở mọi nơi, trong mọi lúc. Chừng ấy con ổn định được tình trạng thử thách nguy hiểm nhất.

852. Quá lao lực, có ngày sẽ bất lực; quá bận tâm, có ngày mất nội tâm. Càng bận rộn con càng phải dành thì giờ để suy tư, học hỏi, và nhất là cầu nguyện. Con sẽ tìm được bình an.

853. Con đừng phí một giây, đừng dư một lời, đừng bỏ một dịp.
Con sẽ nhận xét sâu sắc hơn,
Có ý chí cương quyết hơn,
Được người cảm phục hơn.

854. Biết giữ kỷ luật cá nhân, biết tổ chức đời sống, biết bắt đầu hành động, biết phân giá trị mỗi việc. Đó là những điều kiện giúp con lãnh đạo cách hiên ngang, anh hùng, đem lại tin tưởng lúc mọi người nao núng, hoảng hốt.

855. Nhìn rõ, nhìn thật, nhìn đúng, xét người, xét việc, xét cảnh. Đó là óc thực tế con cần để lãnh đạo, dựa trên các dữ kiện khách quan.

856. Dùng toàn công thức là máy móc, ngủ trong thủ tục là lỗi thời, lạc trong chi tiết là chật hẹp.
Con phải:
– Nhìn tổng quát,
– Thích ứng dẻo dai,
– Biến dở thành hay.
Con cần:
– Cố vấn,
– Chuyên viên,
– Nhất là ý chí của con.

857. Con phải phát triển, trau dồi khả năng để phục vụ đắc lực hơn.

858. Lãnh đạo mà thiếu khả năng, không những con mất uy tín mà còn thiếu liêm chính.

859. Đừng đòi vị lãnh đạo của con phải có đủ mọi tài năng, vì con sẽ không tìm ra người lãnh đạo lý tưởng ấy. Nhưng nếu con lãnh đạo, con phải kiếm cách phát triển khả năng không ngừng.

860. Để có thể điều khiển mọi hoạt động và quy hướng mọi cố gắng về mục đích, người lãnh đạo phải có khả năng phân biệt rõ ràng những ý tưởng tổng quát, nhờ đó có cái nhìn toàn diện và hiểu biết đầy đủ về mọi ngành trong tổ chức của mình.

861. Mỗi cá nhân là một “mầu nhiệm”. Muốn lãnh đạo, con phải biết từng tùy viên, với nhu cầu, sở thích, tính tình, phản ứng của họ, để đánh giá họ đúng mức, đặt họ đúng chỗ.

862. Như Chúa Giêsu đã ở liên lỉ với các Tông đồ suốt ba năm, con hãy hoà mình với các cộng tác viên của con, thông cảm, chia sẻ tâm sự vui buồn và đoán biết tâm lý từng người. Con sẽ ngạc nhiên vì lúc ấy họ đoàn kết và cố gắng vượt mức.

863. Con hãy đặt mình vào địa vị các cộng sự viên, trao đổi quan điểm thân mật với họ, đón tiếp ân cần, tỏ cho họ thấy con quan tâm đến họ, con hiểu họ. Thái độ nhân hậu ấy sẽ làm cho họ yêu thương con, tin tưởng con.

864. Công trạng của con không được ghi trong huy chương trên ngực, trong các bản tuyên dương, các diễn văn ca ngợi con. Phần thưởng của con được ghi trong cái nhìn, trong quả tim của các cộng sự viên.

865. Chiếm được con tim của tùy viên, con có thể thấy họ dốc toàn lực để theo con vì họ biết con yêu họ thành thực, đậm đà, hy sinh tận tụy cho họ. Nếu con không lãnh đạo bằng tình yêu, con phải sử dụng hạ sách: “vũ lực”.

866. Khi đã chinh phục được con tim của tùy viên, người lãnh đạo dám:
– Để tùy viên nhìn gần mà không sợ mất mát,
– Hạ mình với họ mà vẫn cao thượng,
– Tự nhiên, từ tốn mà được kính phục,
– Cương quyết đòi hỏi mà được vâng lời triệt để.

867. Con đừng quên rằng tùy viên của con là người, là một nhân vị, là con Chúa, nên chỉ có họ và Thiên Chúa mới có quyền đối với họ. Không ai được coi họ như vật sở hữu, như máy móc sản xuất.

868. Nhà lãnh đạo công tâm và khiêm tốn, làm việc cho người kế vị, bất kể người đó là ai – Con hãy đặt sự trường cửu của công việc lên trên danh tiếng và lợi ích cá nhân con.

869. Lãnh đạo không gương sáng được vâng phục mà không được kính phục.
Lãnh đạo chỉ nêu gương sáng trong nhiệm vụ được kính phục mà không được mến phục.
Lãnh đạo nêu gương sáng trong mọi lãnh vực được vâng phục và kính phục.

870. Đặc điểm của nhà lãnh đạo thiên tài là biết quy tụ cộng tác viên bằng cách:
– Tìm họ,
– Khám phá họ,
– Tiếp đón họ,
– Chọn họ,
– Huấn luyện họ,
– Tín nhiệm họ,
– Sử dụng họ,
– Mến yêu họ,
Không ai là nhà lãnh đạo lý tưởng cũng như không ai là cộng tác viên thập toàn.

871. Thiên Chúa là bí quyết của nhà lãnh đạo. Ngài ban uy quyền và không bỏ rơi những ai dựa vào quyền năng của Ngài để lãnh đạo. Tinh thần khiêm nhượng và lòng bác ái là căn bản; Phúc âm của Ngài hướng dẫn nhà lãnh đạo.

872. Nhà lãnh đạo không chỉ căn cứ vào báo cáo thôi, nhưng nhất là lo lắng đọc “sách đời sống” của mỗi tùy viên hơn: đọc trong lòng họ, trong khả năng họ, trong thử thách họ.

873. Chúa Giêsu không có ý biến đổi tức khắc các Tông đồ bằng mệnh lệnh, nhưng Chúa để họ dần dần tự canh tân. Con hãy tin tưởng và làm cho người ta tin tưởng, sống và làm cho người ta thích sống như con.

874. Chúa Giêsu không định giờ để ra lệnh, hay mở lớp huấn luyện tinh thần. Ngài dùng cơ hội thực tế trong đời sống để dạy cho các tông đồ những bài học thiết thực: lúc đi ngang vườn nho, cây vả, đồng lúa, lúc các em bé đến chơi, lúc các Tông đồ tranh giành địa vị (x. Mt 21,18tt; Lc 9,46tt; Ga 4,35).

875. Trong việc tông đồ trực tiếp, tuy Chúa Giêsu có dạy những bài giảng riêng biệt, nhưng Ngài vẫn thích những cuộc gặp gỡ tự nhiên hơn. Trong những giây phút bất ngờ, ơn đặc sủng đã đến với Giakêu, Simon, bà Samari… (x. Mt 26,6; Lc 19,1tt; Ga 4,7tt).

876. Chúa Giêsu không bỏ các Tông đồ vì họ không hiểu Ngài hay cứng đầu đối với Ngài. Con đừng nản lòng, cứ nhẫn nại, tử tế với hạng người ác ý, ác tâm, đê tiện. Ơn Chúa sẽ thu phục họ.

877. Nhiều gia đình, nhiều cộng đoàn chỉ dùng lưỡi đối thoại với nhau. Nếu biết dùng quả tim đối thoại đứng đắn, tâm hồn họ sẽ xích lại gần nhau.

878. Lúc đối thoại, Chúa Giêsu không đóng miệng Phêrô nóng nảy. Lời lẽ bồng bột chua chát của người khác không làm sụp đổ vũ trụ đâu. Con đừng sợ, cứ đối thoại với tất cả tâm hồn thay vì lý sự.

879. Tìm đâu ra bí quyết của đối thoại làm tâm hồn được giải thoát, cởi mở, trí khôn được sáng suốt? – Hãy tìm trong Phúc âm.

880. Chúa Giêsu không từ khước một ai đối thoại với Ngài. Ngài đối thoại với bạn hữu, với người lạ, với dân ngoại, với người tội lỗi, với người chống đối.

881. Lãnh đạo phải trở nên mọi sự cho mọi người, trong bất cứ trường hợp nào, chấp nhận mọi thứ công việc, nhọc mệt, chống đối, và khi cần phải hy sinh cả mạng sống để mưu ích cho đoàn thể. Nhưng đừng bao giờ vì thế mà giảm sút sự lo lắng cho chính linh hồn con.

882. Nhận trách nhiệm lãnh đạo, con phải nhớ rằng, sau khi đem hết thiện chí chu toàn nhiệm vụ, hãy xem mình là tôi tớ vô dụng, nhìn nhận mình còn nhiều khuyết điểm và không ngạc nhiên, buồn phiền khi được đáp trả bằng hiểu lầm và vô ơn (x. Lc 17,10).

Đọc lại đời sống dưới ánh sáng Phúc âm

 

883. Trên đường Hy vọng, thỉnh thoảng con phải dừng chân, nơi bóng mát, để kiểm điểm, sửa chữa những bước lệch lạc, rút kinh nghiệm cho bước tiến, chuẩn bị thêm hành trang.

884. Công tác càng lớn, kế toán càng kỹ. Nếu con cẩu thả, ấy là dấu con xem thường sự sống đời đời của con.

885. Nhìn quá khứ để than van: vô ích.
Nhìn quá khứ để kiêu căng: nguy hiểm.
Nhìn quá khứ để rút kinh nghiệm cho hiện tại: khôn ngoan.

886. Kiểm điểm kỹ càng, kiểm điểm sáng suốt, kiểm điểm chân thành, kiểm điểm can đảm. Không kế toán viên nào, không máy IBM nào kiểm điểm thay con được, nếu con muốn cho đáp số trước.

887. Kiểm điểm mỗi tối, kiểm điểm mỗi tuần, kiểm điểm mỗi lần xưng tội, kiểm điểm mỗi lần tĩnh tâm. Xe tốt mấy cũng phải làm máy lại, người khoẻ mấy cũng phải khám tổng quát nếu muốn tránh sụp đổ bất ngờ, không cứu vãn được.

888. Con đừng khinh dễ những sự bất tín nhỏ mọn. Không cần bão lụt khủng khiếp, những con sâu nhỏ trong một đêm, có thể làm tan nát bao nhiêu vốn liếng lao lực trong một cánh đồng xanh tươi thơm ngát.

889. Chỉ có lính điên mới đưa lưng lãnh đạn, miễn đừng tử thương thì thôi. Đó là thái độ của con khi phạm tội nhẹ, chỉ cốt tránh tội trọng thôi.

890. Con đau đớn vì nhiều lần đã phản bội Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như Mađalêna “các tội của bà, các tội lỗi nhiều đó, quả đã được tha rồi vì bà đã cảm mến nhiều” (Lc 7,47); phải làm như Gioan: trốn bỏ Chúa trong vườn Giếtsêmani, nhưng trở lại đứng bên Thánh giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.

891. Không tránh tội nhẹ, con mến yêu Chúa ít quá. Con không đủ động lực nội tâm để tiến trên đường Hy vọng.

892. Không kiểm điểm “bệnh thiếu sót” là một thiếu sót lớn, đây là một ít hiện tượng: hững hờ làm việc Chúa, tính toán giảm thiểu các hy sinh, khéo léo trốn tránh trách nhiệm, hành động vì lý do trần tục, so đo lánh nặng tìm nhẹ…

893. Sự ăn ăn hối cải của con không phải là “hát bội”, khóc lóc não nùng xong rồi hết tuồng hạ màn và đâu lại vào đó.

894. Dù bay lồng lộng giữa không gian thế mà lộ trình của phi thuyền rất rõ rệt; là phi hành gia con phải sửa tay lái liên lỉ và triệt để nghe lời chỉ bảo từ quả đất. Lệch lạc là không đến đích.

895. Kiểm điểm mấy cũng vô ích, nếu con không dốc quyết cải thiện. Coi máy mà không làm máy lại, xe chẳng chạy được.

896. Dốc quyết ít điểm, dốc quyết thực tế, dốc quyết căn bản. Có những người tưởng mình thánh thiện vì có một sổ lớn đầy dẫy những dốc quyết mây mưa.

897. “Để sau” đôi khi là đường lối của người khôn ngoan, lắm lúc là khẩu hiệu của những người bi quan, nhát đảm và bại trận.

898. Chỉ giây phút hiện tại mới quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của con để khóc lóc. Nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của anh em để xét đoán. Đừng lo ngày mai của con để bi quan. Nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng Chúa, giao tất cả cho tình yêu Chúa.

899. Đừng phiền muộn, đừng ngã lòng. Lắm lúc hiện tượng ấy do bệnh “kiêu ngạo” phát sinh. Con cứ đinh ninh rằng con thuộc chín phẩm thiên thần không thể phạm tội sao?

900. Con dốc quyết làm tông đồ Chúa, nhưng con không phó thác vô điều kiện cho Chúa. Làm sao con là khí cụ đắc lực trong tay Chúa, khi con còn tháo gỡ và cất dấu ít bộ phận.

901. Trước công cuộc lớn lao, lắm lúc con nghe cám dỗ muốn được khuyến khích, được phương tiện của quyền thế để làm việc Chúa chóng kết quả hơn, vinh danh Chúa hơn. Vinh danh Chúa hay sáng danh con?
– Nếu cần phương tiện quyền thế, Chúa Giêsu đã dùng rồi.
– Hãy tìm Nước Trời rồi mọi sự sẽ được ban thêm cho con (x. Mt 6,33).
– Chỉ trích kẻ khác, cậy quyền thế để rồi con cũng nương tựa và nô lệ quyền thế sao?

902. Phải chăng con sợ người “sáng suốt” cười con là “điên dại”? Lúc còn sống Têrêxa Avila, Phanxicô Assisiô, Cottôlengô, Gioan Boscô… bị nhiều người gọi là điên dại, nhưng ngày nay những tên điên dại ấy lại được tôn làm thánh. Hãy tin tưởng và mạnh tiến.

903. Để đi đúng hướng trên đường Hy vọng, con phải phản ứng ngay: “Lạy Chúa, tất cả vì yêu mến Chúa, tất cả vì Chúa trong anh em con,
Con không dành gì cho con,
Con không muốn ai biết ơn con,
Con không muốn phần thưởng nào”.

904. Kiểm điểm rồi con phải làm gì? Con hãy khiêm tốn khóc lóc tội mình như Phêrô, hãy ngồi bên chân Chúa, hãy yêu mến bù lại như Mađalêna, hãy dốc quyết canh tân như Giakêu, hãy làm tông đồ hăng say như Phaolô. Tràn đầy hy vọng, con tiến lên.

905. Ai cũng có những ước vọng:
– Sách báo,
– Trường học,
– Hội đoàn,
– Nhà máy.
Với sức con, ước vọng lại hoàn ước vọng. Nhưng để ơn Chúa vào trước cái ước vọng ấy, con có những số kỷ lục:
– Ngàn sách báo,
– Vạn trường học,
– Triệu hội đoàn,
– Tỷ nhà máy.

906. Phương thế của con cũng là phương thế các tông đồ:
– Thánh Thể: “Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
– Thánh Linh: “Người sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác” (Ga 14,16).
– Mẹ Maria: “Này là Mẹ Con!” (Ga 19,27).
– Phúc âm: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc
16,15).
Chúa Giêsu đã trao cho con, con cho là ít sao? Thế gian có gì sánh được không?

907. Trước hoài bão lớn lao, chương trình hành động vĩ đại, trở ngại cao như núi rộng như biển, con yếu đuối sao vượt nổi? Lấy phương tiện ở đâu? Thánh Phaolô đã nói với giáo dân ngày xưa băn khoăn như con: “Những điều thế gian coi là yếu đuối, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc những gì là mạnh mẽ” (1Cr 1,27), “hiện tôi có là gì, là bởi ơn Thiên Chúa, và ơn Người xuống cho tôi đã không ra hư luống” (1Cr 15,10), nghĩa là con phải trung tín nghe theo ơn Chúa.

908. Kiểm điểm là đọc lại đời con, dưới ánh sáng đức tin.

909. Cứ sáu tháng một lần, hãy lập một thống kê các hoạt động của con, một thống kê các đồ dùng của con, một thống kê các tình cảm của con, xem xét kỹ càng và can đảm gạch bỏ những gì vô ích.

Mẹ nghèo khó, nhưng Mẹ ban cho ta kho tàng trọng nhất:
Chính Chúa Giêsu, Đấng ban mọi ân sủng


910. Không có mẹ, dù được mọi người lo lắng bảo đảm đến đâu, em bé cũng không đi theo. Nhưng đi với mẹ, dù băng rừng, vượt suối, đói rét, em vẫn đi. Trong cuộc chiến, bao nhiêu bà mẹ chết rồi, đứa con vẫn lê lết một bên. Trên đường Hy vọng, con nắm tay Mẹ Maria; có Mẹ đã đủ cho con rồi, con không cô đơn. Mẹ là “nguồn sống, là an vui, là hy vọng của chúng con”.

911. Trẻ em chỉ cần mẹ. Vắng bóng mẹ, trẻ khóc nức nở, không ai dỗ được, cho nó kẹo bánh, quà đẹp hay vàng ngọc nó cũng vứt đi, nó chỉ vui tươi lại khi gặp mẹ. Con phải trở nên như trẻ em, để hiểu và yêu mến Mẹ Maria.

912. Tình yêu Mẹ như làn gió mát, như hạt sương mai, làm tâm hồn quằn quại khao khát an bình, được êm dịu ủi an.

913. “Này là Mẹ con!” (Ga 19,27). Sau phép Thánh Thể, Chúa không thể trối gì hơn cho con; Mẹ đã đạp đầu con rắn, Mẹ sẽ giúp con chiến thắng ma quỷ, thế gian, xác thịt. Mẹ sẽ ban ơn cho con giữ vững lý tưởng cao cả Chúa đã đặt vào lòng con.

914. Đứa con bệnh tật, xấu xí, người mẹ vẫn thương yêu. Dù con nguội lạnh, tội lỗi, phản bội, hãy phó mình trong tay Mẹ. Chúa Giêsu trối: “Này là Mẹ Con!” (Ga 19,27), nỡ nào Mẹ bỏ con.

915. Lúc sa ngã, hãy khiêm tốn, khóc lóc với Mẹ, vì con đã giết chết Con Mẹ. Mẹ sẽ đón nhận con. Gioan Mẹ cũng nhận, người trộm lành, Mađalêna, Mẹ cũng nhận làm con Mẹ.

916. Mẹ Maria là sách “Phúc âm sống”, “cỡ nhỏ”, “bình dân”, hơn tất cả các sách vừa tầm con.

917. Muốn biết Mẹ tốt đẹp chừng nào, con hãy nhớ Mẹ là Mẹ Chúa Ngôi Hai, cao cả, toàn năng: phúc cho con biết mấy vì Ngài cũng là Mẹ của con. Nếu không có lời trăn trối của Chúa Giêsu, con không thể hiểu được.

918. Muốn nên thánh, con hãy bắt chước trẻ thơ. Nó không hiểu lý thuyết gì, nhưng nó nhìn mẹ nó, nó làm theo mẹ nó, nó tin mẹ nó biết tất cả, làm đúng tất cả. Nhìn Mẹ Maria, làm như Mẹ Maria, con sẽ nên thánh.

919. Đọc kinh cầu Đức Mẹ là cách đơn sơ Hội thánh dạy con hiểu và nhớ các tước hiệu, quyền năng, nhân đức, lòng yêu thương của Mẹ con. Càng nhìn Mẹ, con càng sung sướng, hy vọng cho phận mình đang chiến đấu vất vả và con kêu Mẹ như trẻ thơ: “Cầu cho chúng con! Cầu cho chúng con!”

920. Với tâm tình thánh thiện, hãy ghi vào lòng mà suy niệm, mấy lời vắn tắt diễn tả cuộc đời Mẹ để yêu mến và bắt chước:
– “Này tôi là tôi tá Chúa”: Ecce.
– “Xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!”: Fiat.
– “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”: Magnificat (x. Lc 1,38-46).

921. Phản ứng đầu tiên của trẻ thơ là gọi: “Mẹ ơi! Mẹ!” khi lo sợ, lúng túng, đau buồn. Tiếng mẹ là tất cả cho nó. Con hãy năng gọi: “Mẹ, Mẹ ơi! Con yêu mến Mẹ, con trông cậy Mẹ, Mẹ là tất cả của con”.

922. Chuỗi Mân Côi là dây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: âu yếm như ở Bêlem, khắc khoải như bên Ai cập, trầm lặng như thời Nagiarét, lao động như trong xưởng mộc, sốt sắng như tại Đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc Phục sinh, làm tông đồ bên Gioan. Tóm lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân côi Mẹ đã trao và qua đó Mẹ nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ.

923. Không gì quý bằng món quà lòng Mẹ Maria tặng cho chúng ta: Chúa Giêsu, món quà quý nhất. Chính lòng Đức Mẹ cũng quý nhất vì: “Giêsu Con lòng Bà”.

924. Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta mẫu gương để theo:
Đức Chúa Cha: “Hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Nhưng vì không ai thấy Cha trên trời, nên Chúa Giêsu đã chỉ chính mình Ngài: “Ai thấy Ta thì thấy Cha” (Ga 14,9).
Và rồi để giúp chúng ta sống như Ngài, Chúa cho một mẫu gương dịu hiền, âu yếm, Mẹ Maria: “Này là Mẹ con” (Ga 19,27).

925. Con thơ bắt chước mẹ tất cả, dù khó khăn nguy hiểm, vì mẹ là thần tượng, là tất cả, vì yêu mẹ, tin mẹ; xem mẹ uống thuốc, con uống theo; mẹ đi ở tù, con vào theo. Mẹ Maria là tấm gương sáng vừa tầm con, con hãy mô phỏng gương Mẹ. Chúa ba Ngôi không thể làm một tâm hồn thánh thiện hơn được.

926. Mẹ nêu gương ẩn dật khiêm cung, nhưng đồng thời Mẹ luôn luôn hiện diện phục vụ. Mẹ không ra mặt, không lên tiếng nhưng Mẹ hằng ở gần bên Chúa Giêsu: Hãy sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu đang ở trong con.

927. Chúa Giêsu đang tiếp tục sống và hành động trong Hội thánh và trong con. Mẹ Maria cũng hiện diện trong Hội thánh và trong con, vì Mẹ là Mẹ Hội thánh và Mẹ con.

928. Những lúc vinh hiển của đời Chúa Giêsu: trên núi Taborê, khi vào thành Giêrusalem, lúc làm phép lạ… Mẹ ở trong bóng tối. Những giây phút nguy hiểm đau buồn nhất, Mẹ can đảm hiện diện: lúc di tản sang Ai-cập, trên đường Tử nạn bi thảm, dưới Thánh giá, trong nhà tiệc ly. Mẹ không sống cho Mẹ, Mẹ chỉ sống cho Chúa, cho công cuộc cứu chuộc.

929. Cùng cầu nguyện với các Tông đồ, giúp các Tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Mẹ đã chuẩn bị, đã chứng kiến ngày công khai hóa Hội thánh, cũng như Mẹ đã sinh Hội thánh trong Chúa Giêsu. Mẹ thực là Mẹ Hội thánh.

930. Mẹ có thể hiện ra nơi đô thị, giữa những nhà chọc trời, trong các Vương cung thánh đường, cho các nhân vật quan trọng, các nhà thần học. Nhưng Mẹ đã chọn nơi hoang vu, núi đồi, xa vắng, với những kẻ chất phác, vì Mẹ muốn đến với những người không ai thèm đến, đến những chỗ không ai muốn đến. Mẹ muốn con cùng đến với Mẹ.

931. Mẹ thiếu tất cả những gì trần gian cho là hạnh phúc. Đọc kinh: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, con thấy Mẹ như một vực sâu “thấp hèn”, “tôi tá”, “người hèn mọn”, “người đói khát”. Nhưng Chúa đã nhìn đến vực thẳm ấy và với lòng thương xót, đã làm cho Mẹ “đầy ơn phúc”, nghĩa là đầy Chúa.

932. Mẹ Maria nghèo khó, không tiền, không bạc, có lúc không nhà cửa, không ghế bàn, Mẹ không biết giảng, nhưng Mẹ có một món quà quý nhất để cho:
– Các mục tử Bêlem,
– Ba vị đạo sĩ phương đông,
– Simêon và Anna ở Đền thánh,
– Nhân loại ở Gôlgôtha (x. Mt 2,11; Lc 2,16,22-39); Ga 19,25-27).
Mẹ đã thinh lặng cho họ Chúa Giêsu, món quà mà chỉ Mẹ có, món quà ấy giảng thay cho Mẹ, vì đó là Ngôi Lời.

933. Sự hy sinh toàn hiến của Mẹ càng cao quý khi Mẹ phó thác cho Chúa trọn vẹn. Đi ngược lại ước nguyện của các thiếu nữ thời ấy, Mẹ đã quyết sống đồng trinh. Chúa đã ban cho Mẹ cả hai; vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ nhân loại.

934. Lòng con rộng bao la, nhưng túi con có giới hạn, chỉ có một món quà con có thể cho luôn, một món quà quý không ai có thể mua nổi, một quà tặng tốt không ai sánh bằng: Hãy cho họ Chúa Giêsu như Mẹ Maria.

935. Tràn trào nước mắt, con đến với Mẹ an ủi kẻ âu lo; đau khổ ê chề, con đến với Mẹ phù hộ các giáo hữu; tội lỗi ngã sa, con đến với Mẹ bầu chữa kẻ có tội. Chính con cũng hãy trở thành một Maria khác, lòng con hãy giống lòng Mẹ, để đón tiếp mọi người đến trú ẩn và con cũng sẽ là nguồn sống, là an vui, là hy vọng của anh em.

936. Mẹ hoàn toàn sống cho Chúa Giêsu, sứ mệnh của Mẹ là đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu… Tất cả vinh dự của Mẹ là do nơi Chúa Giêsu. Mẹ không là gì cả nếu Con Mẹ không phải là Chúa Giêsu, nếu cả cuộc đời Mẹ không dành trọn cho Chúa Giêsu. Đời con cũng không là gì cả nếu tách lìa khỏi Chúa Giêsu.

937. Con hãy tìm giá trị của một đời sống thiêng liêng, một linh đạo sâu xa nơi Mẹ Maria. Mẹ hoạt động, nhưng tất cả mọi cử chỉ và tư tưởng, dù vụn vặt nhất, cũng vì Chúa Giêsu. Mẹ không thể có một giây phút nào ngoài Chúa Giêsu được. Mẹ có một đời sống nội tâm sâu sắc vô tận. Trong Mẹ, hoạt động và chiêm niệm không tách lìa nhau: chiêm niệm giữa hoạt động, hoạt động do chiêm niệm.

938. Lối phản chứng trung thực nhất, cuộc cách mạng lớn lao nhất trong lịch sử loài người, Mẹ Maria đã làm với Chúa Giêsu, trong chính mình: không đập đổ, không tiêu diệt, không hủy bỏ lề luật. Mẹ đã hy sinh để giây phút lịch sử được thực hiện: Tân Ước đã được thực hiện thay thế Cựu Ước.

939. Con thích phiêu lưu, hãy bước theo Mẹ. Đời Mẹ là “một cuộc hành trình, phiêu lưu trong đức tin”, chỉ biết phó thác mọi sự trong tay Chúa, và tiến đi, từ máng cỏ đến Aicập, từ Nagiarét đến Gôlgôtha… Cứ tin và đi! Phiêu lưu vô cùng bảo đảm!

940. Bất cứ ở đâu con cũng hãy noi gương Mẹ Maria, trao ban Chúa Giêsu cho thế gian… Điều cần không phải là nơi chỗ, vì lần đầu tiên, trong chuồng bò, Mẹ đã cho các mục tử Chúa Giêsu. Nhưng điều cần là con phải sống bác ái, hiệp nhất vì lúc ấy mới có Chúa Giêsu ở giữa con. Đời con phải là một lễ Giáng sinh liên lỉ, mang Chúa đến cho mọi người.

941. Tâm hồn con trẻ trung, muốn sống rất trung thực, con hãy bắt chước Mẹ. Trong Mẹ không có cái “tôi” nữa, không còn tì vết của con người cũ nữa. Mẹ vô nhiễm và đầy tràn Chúa đến nỗi không thể nói đến Mẹ Maria mà không nghĩ đến Chúa Giêsu.

942. Không Thiên Chúa, con hoàn toàn trống rỗng, cô đơn, khốn nạn. Mức độ sung mãn hạnh phúc của con tùy thuộc mức độ con kết hiệp với Thiên Chúa. Mẹ Maria hoàn toàn hướng về Thiên Chúa; Ngài thấy Mẹ là thụ tạo toàn hảo như ý Ngài. Mọi sự tốt đẹp của Thiên Chúa biểu lộ cách trong sáng nhất trong Mẹ.

943. Mẹ Maria là hiện thân của sự nghèo khó. Mẹ sống nghèo cách tự nhiên, vui vẻ. Mẹ yêu mến cuộc sống nghèo, vì lòng Mẹ giàu, kho tàng Mẹ lớn. Mẹ nghèo nhất, nhưng Mẹ đẹp nhất, vì Mẹ đẹp với vẻ đẹp của Chúa ban. Có gì nghèo bằng thiên nhiên, mà lại đẹp như thiên nhiên: từ ái như mặt trăng, rực rỡ như mặt trời, óng ánh như hạt sương, dễ thương như chim sẻ, thơm tho như cành huệ (x. Kh 12,1).

944. Càng cảm thấy mình bất lực, càng thêm đau khổ. Dưới chân thánh giá, Mẹ bất lực hoàn toàn; nhìn con thân yêu, lòng Mẹ càng tan nát. Nhưng Mẹ đứng vững để Mẹ ấp ủ con những khi con cảm thấy bất lực trước đau khổ.

945. Dưới chân Thánh giá, Mẹ Maria đạt đến mức độ anh hùng của mọi nhân đức: hiền lành, khiêm nhượng, thinh lặng, nhẫn nại, tin tưởng, cậy trông, yêu mến. Mẹ nghèo trơ trọi vì mất cả con ruột là Giêsu, Thiên Chúa làm người. Mẹ mến Chúa đến độ có thể hiến dâng cả mạng sống mình hiệp với máu con để cứu chuộc nhân loại. Mẹ “chịu tử đạo” vì không được chết theo con. Mẹ tin cậy vững vàng trước điều thiên hạ cho là thất bại, sụp đổ hoàn toàn: Chúa chết!

946. Khi lạc mất Chúa Giêsu, Mẹ đau khổ tìm con, chính lúc đó tình yêu của Mẹ biểu lộ rất rõ rệt (x. Lc 2,48). Khi con không còn được bao bọc bằng bầu khí huynh đệ thánh thiện, lúc hầu như con mất Chúa rồi, chính đó là lúc Chúa Giêsu trắc nghiệm tình yêu của con đối với Chúa có thành thực không!

947. Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lập đi lập lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán.

948. Mẹ Maria không chỉ nhìn Chúa Giêsu, Mẹ nhìn Bà Isave, nhìn Gioan, nhìn đôi tân hôn ở Cana… Con hãy có cái nhìn của Mẹ: nhìn Chúa, nhìn người.

Con phải trả lời được cho mọi người
về niềm hy vọng trong con


949. “Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng thương hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự Phục sinh, từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô” (1Pr 1,3).

950. Người công giáo là ánh sáng giữa đêm tối, là muối sống giữa thối nát, và là hy vọng giữa một nhân loại thất vọng.

951. Thánh Phaolô hằng khuyên nhủ giáo dân đừng sống như những người không có hy vọng.

952. Kitô hữu là những người “ngóng đợi niềm hy vọng phúc lộc và cuộc hiển linh vinh quang của Thiên Chúa lớn lao và là Cứu Chúa của ta, Đức Giêsu Kitô” (Tt 2,13).

953. Nhiều người công giáo giao khoán việc cứu rỗi trần gian cho Chúa. Họ không ý thức rằng Chúa giao việc cứu rỗi trần gian cho họ cộng tác.

954. Yêu Chúa là yêu trần gian. Mê say Chúa là mê say trần gian. Hy vọng ở Chúa là hy vọng trần gian được cứu rỗi.

955. Con phải loan Tin mừng cho thế giới. Tin mừng ấy không phải chỉ gồm những giới răn tiêu cực nhưng chính là một sứ điệp lạ lùng: Chúa thương yêu ta, Chúa yêu thương trần gian và cứu trần gian.

956. Trên Thánh giá, Chúa nghèo lắm! Con chỉ xin Chúa Giêsu chịu đóng đinh một điều: yêu thương, đau khổ và luôn luôn hy vọng.

957. Nếu suy ngắm những trang này, mà con không làm cho Phúc âm tràn ngập cả đời con, nếu con còn cầu nguyện: “Nước Cha dừng lại”, thì con không phải là hy vọng của trần gian.

958. Chỉ trong vài chục năm gần đây, nhân loại đã tiến bộ về khoa học và kỹ thuật hơn nhiều thế kỷ trước. Nhân loại đầy đủ sức mạnh khủng khiếp có thể tự sát với vũ khí hạch tâm. Nhân loại đầy đủ phương tiện khổng lồ, hầu như no nê không thiếu gì nữa. Nhân loại cảm thấy làm được mọi sự, nhưng không biết tại sao mình sống, mình đi về đâu, tương lai thế nào? Nhân loại đang trải qua một cơn khủng hoảng hy vọng.

959. Thiên Chúa không lùi bước trước tiến bộ của con người. Ngược lại càng đầy sức mạnh, con người càng cảm thấy cần hy vọng để tiến, cần tình yêu để sống. Nếu không có như thế, sống để làm gì? Có đáng sống không? Không lẽ hư vô và thù ghét là gia nghiệp của con người tiến bộ?

960. Con người nghĩ rằng khoa học càng tiến bộ, Thiên Chúa càng thoái lùi. Trong lòng nhiều người “Chúa chết rồi”. Giờ đây lương tâm họ “được giải thoát”, nhưng cái tự do ấy làm cho họ hoang mang, hoảng hốt. Họ thiếu hy vọng!

961. Thời đại nào cũng có những người tự xưng là tiên tri, nhưng đường lối của họ không đem lại hy vọng cho nhân loại. Chỉ Chúa Giêsu tự xưng là “Đường”, chỉ Ngài đem lại hy vọng với kích thước của thế giới;
“Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”(Mc 16,15).
“Các con sẽ là chứng tá của Ta ở Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđê và Samari, và cho đến tận cùng trái đất”(Cv 1,8).

962. Con người hy vọng để sống, để tiếp tục sống. Con người sẽ quay về với ai có thể mang lại cho họ niềm hy vọng lớn lao nhất.
Niềm hy vọng ấy Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta đã đến, là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào”(Ga 10,10).
Niềm hy vọng ấy, Chúa ban qua tay Mẹ Maria: “Nguồn hy vọng của chúng con”.

963. Giáo dân là người mến yêu sứ mệnh trần thế của mình, là người thực hiện đời đời trong đời tạm.
– Là người tin rằng Chúa giao cho mình trần gian và anh em, để đưa họ đến cứu rỗi vĩnh cửu.
– Là người xác tính rằng Chúa ban ơn cứu rỗi, nhưng Chúa đòi sự hợp tác của con người.
Biết hy vọng, bảo đảm hy vọng, mang lại hy vọng.

964. Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm gọi họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài.

965. Chúng ta cầu xin Chúa, nhưng Chúa trông vào chúng ta. Ngài đã lập một cơ quan để ban ơn cứu rỗi: Hội thánh.
Hội thánh chịu trách nhiệm về công việc của Chúa, và về niềm hy vọng lớn lao nhất của toàn thể anh em.

966. Có hạng “công giáo đợi chờ”, khoanh tay mong đợi niềm hy vọng đến.
Có hạng “công giáo thụ động”, trốn tránh, vô trách nhiệm.
Họ chỉ biết “nhìn lên” để kêu cứu, mà không biết “nhìn tới” để tiến, “nhìn quanh” để chia sẻ, gánh vác. Niềm hy vọng đang ở giữa họ, mà họ không hay!

967. Con không trốn tránh hiện tại để trông đợi một cuộc sống khác. Con “tin hằng sống vậy”. Niềm hy vọng ấy đã đâm chồi nơi con, và sẽ tiếp tục tươi nở bất tận.

968. Con hoàn toàn sống trong hiện tại, nhưng con cũng hoàn toàn sống trong đời đời.
Con chăm lo cứu rỗi anh em,
Nhưng con không quên làm với Chúa và vì Chúa.
Con hết sức tiến tới,
Nhưng với tất cả ánh sáng từ trời cao,
Con dấn thân giữa trần thế,
Nhưng với tình yêu thần linh.
Tất cả điều ấy có ý nghĩa gì?
Nếu con không mang niềm hy vọng lớn lao nhất trong quả tim con?

969. Con hãy làm cho người công giáo tin tưởng ở ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi gia đình, ơn gọi vợ chồng, ơn gọi nghề nghiệp. Họ sẽ hết chán nản, họ sẽ tràn đầy hy vọng vì họ ý thức rằng Đấng đã gọi họ sẽ đưa họ đi đến cùng đích.

970. Làm một cuộc cách mạng: đừng đem đời người công giáo xa lìa môi trường, để quây quần quanh các việc thiêng liêng. Đấy người công giáo mang niềm hy vọng của mình xâm nhập môi trường.

971. Con hãy cố gắng, dù yếu đuối sa ngã, hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế.

972. Không thể quan niệm được một Kitô hữu không mê say đắm hy vọng ngập tràn thế giới.

973. “Các bạn Thế Hệ mới” (GEN) phải là “thanh niên của hy vọng”, vì với hy vọng, các bạn sẽ luôn luôn hạnh phúc và các bạn sẽ làm cho mọi người hạnh phúc (Chiara Lubich).

974. Con hỏi chừng nào có thể xin “từ chức tông đồ”, nghỉ việc tông đồ được. Công việc tông đồ có thể thay đổi tùy khả năng, tuổi tác, nhưng sứ mệnh tông đồ con đã nhận lãnh do phép Thánh tẩy và Thêm sức, chỉ chấm dứt với hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu khi nói “hoàn tất” trên Thánh giá.

975. Gia đình công giáo là tương lai, là hy vọng của Hội thánh. Phải động viên toàn lực gia đình công giáo theo tiếng gọi của Hội thánh, để lôi cuốn và thúc đẩy họ loan Tin mừng cho thế giới, một thế giới càng ngày càng có nhiều người khô đạo.

976. Con hãy hy vọng luôn luôn, đừng chán nản vì những khó khăn nội bộ, ngay trong việc tông đồ. Như Thánh Phaolô: “Kẻ thì vì ghen tương và ganh tỵ; nhưng kẻ thì vì thiện cảm mà rao giảng Đức Kitô… Can chi! Miễn là Đức Kitô được rao truyền thì tôi vui mừng và tôi cứ vui mừng luôn!” (Pl 1,15.18).

977. Con đừng thất vọng vì thiếu phương tiện. Một vị Hồng y giáo chủ đã nói: “Chúng ta hãy dùng phương tiện của các thánh Tông đồ”: các ngài giảng dạy và viết thư; với chừng ấy, các ngài đã chinh phục thế gian. Các ngài đâu có máy móc. Cha chỉ sợ con “quá kỹ thuật” mà “hồn không tông đồ”.

978. Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.

 

979. Để tóm kết những tư tưởng con đã suy ngắm trước đây, Cha mong con hằng ngày nhớ đến các điều đơn sơ sau đây, khác nào những tấm bảng chỉ lối đi trên đường Hy vọng của con:
Con muốn thực hiện một cuộc cách mạng: canh tân thế giới. Hoài bão lớn lao đó, sứ mệnh cao đẹp đó, Chúa trao cho con, con thi hành với “quyền lực Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày con chuẩn bị Lễ Hiện Xuống mới quanh con.

980. Con xúc tiến một chiến dịch: làm cho mọi người hạnh phúc. Con hy sinh mình từng giây phút với Chúa Giêsu, để đem an bình trong tâm hồn, phát triển thịnh vượng cho các dân tộc. Đường lối tu đức thầm kín và thiết thực!

981. Con nắm vững một đường lối tông đồ: “thí mạng vì anh em”, vì không có tình yêu nào lớn lao hơn (x. Ga 15,13). Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục anh em về với Chúa.

982. Con hô một khẩu hiệu: “Tất cả hiệp nhất”, hiệp nhất giữa các người công giáo, hiệp nhất giữa các Kitô hữu, hiệp nhất giữa các dân tộc. Như Chúa Cha và Chúa Con là một (x. Ga 17,22-23).

983. Con tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa sẽ làm cho con sống, “Ta đã đến, là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10,10). Như Manna nuôi dân Do Thái đi đường về Đất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (x. Ga 6,53).

984. Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ: Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (x. Ga 13,35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất. Bác ái là sinh ngữ số một mà Thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên Thiên đàng (x.1Cr 13,1).

985. Con nắm một bí quyết: Cầu nguyện. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện có Chúa ở giữa các con (x. Mt 18,20). Cha tha thiết khuyên con, ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu! Trên quãng đường Cha đi, Cha đã thấy lời thánh Têrêxa Avila ứng nghiệm: “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỷ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hoả ngục”.

986. Con giữ một nội quy: Phúc âm. Đó là hiến pháp trên tất cả mọi hiến pháp, là hiến pháp Chúa Giêsu đã để lại cho các Tông đồ (x. Mt 4,23). Hiến pháp ấy không khô khan, phức tạp, gò bó như các hiến pháp khác, ngược lại, linh động, nhân hậu, làm phấn khởi tâm hồn con. Một vị thánh ngoài Phúc âm là “thánh giả”.

987. Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và Đại diện của Ngài: Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, kế vị các thánh Tông đồ (x. Ga 20,22-23). Hãy sống và chết vì Hội thánh như Chúa Kitô. Đừng nghĩ chết vì Hội thánh mới hy sinh. Sống vì Hội thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.

988. Con có một tình yêu: Mẹ Maria, Thánh Gioan Maria Vianney đã nói: “Mối tình đầu của tôi là Mẹ Maria”. Nghe Mẹ sẽ không lầm lạc, hoạt động vì Mẹ sẽ không thất bại, làm vinh danh Mẹ sẽ được sống đời đời.

989. Con có một sự khôn ngoan: Khoa học Thánh giá (x.1Cr 2,2). Nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, con giải quyết ngay được vấn đề đang khiến con xao xuyến. Thánh giá là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định, tâm hồn con sẽ bình an.

990. Con có một lý tưởng: hướng về Chúa Cha, một người Cha đầy yêu thương. Cả cuộc đời Chúa Giêsu, mọi tư tưởng, hành động đều nhắm một hướng: “… Để cho thế gian biết là Ta yêu mến Cha, và như Cha truyền dạy Ta sao, Ta làm như vậy” (Ga 14,31), “Ta hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga 8,29).

991. Con chỉ có một mối lo sợ: tội lỗi.

Triều đình Hoàng đế Hy lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu vì Ngài đã thẳng thắn khiển trách Bà Hoàng Hậu.
Kế hoạch I: Bỏ tù.
“Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn”.
Kế hoạch II: Lưu đày.
“Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa”.
Kế hoạch III: Tử hình.
“Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thoả mãn nguyện vọng ông: được về với Chúa”.
“Tất cả kế hoạch I, II, III, không làm cho ông đau khổ, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận”.
Kế hoạch IV: “Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm không được!”

Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con.

992. Con ôm ấp một ước nguyện: “Nước Cha trị đến, ý Cha được thành sự, dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,10).
Dưới đất lương dân biết Chúa như trên trời.
Dưới đất mọi người khởi sự yêu nhau như trên trời.
Dưới đất đã bắt đầu hạnh phúc như trên trời.
Con sẽ nỗ lực thực hiện nguyện vọng ấy.
Khởi sự đem hạnh phúc thiên đàng cho mọi người ngay từ trần thế.

993. Con chỉ thiếu một điều: “Có gì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!” (Mc 10,21), nghĩa là con phải dứt khoát. Chúa cần hạng tình nguyện thoát ly!

994. Con dùng một phương pháp tông đồ hữu hiệu: tiếp xúc để hoà mình, nhập thể với mọi người để hiểu, để nghe, để yêu mọi người. Tiếp xúc hữu hiệu hơn giảng, hơn viết sách. Tiếp xúc giữa người với người, lòng bên lòng, bí quyết bền đỗ, bí quyết thành công.

995. Chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất: ngồi bên Chúa (x. Lc 10,41-42). Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn các hoạt động của con thì… Con thấy nhiều, hiểu nhiều rồi, Cha miễn nói.

996. Con chỉ có một của ăn: “Thánh ý Chúa Cha” (x. Ga 4,34) nghĩa là con sống, con lớn lên bằng ý Chúa, con hành động do ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh, vui; ngoài ý Chúa con chết.

997. Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại (x. Mt 6,34; Gc 4,13-15). Sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó!

998. Con chỉ có một tuyên ngôn: “Phúc thật tám mối”. Trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Bát phúc” (x. Mt 5,3-12). Hãy sống như vậy, con sẽ nếm được hạnh phúc rồi rao truyền cho mọi người con gặp.

999. Con chỉ có một công việc quan hệ: Bổn phận, không kể lớn hay nhỏ, vì lúc ấy “con làm việc của Cha con” trên Trời. Ngài chỉ định cho con thực hiện chương trình của Ngài trong lịch sử (x. Lc 2,49; Ga 17,4). Làm bổn phận là đường lối tu đức chắc chắn nhất, đơn sơ nhất. Nhiều người bày vẽ một lối tu đức rắc rối, rồi phàn nàn là khó!

1000.Con chỉ có một cách nên thánh: Ơn Chúa và ý chí con (x.1Cr 15,10). Chúa không bao giờ thiếu ơn; con có đủ ý chí không?

1001.Con chỉ có một phần thưởng: Thiên Chúa (x. Mt 25,21.23; 2Tm 4,7-8; Kh 2,26-28; 3,21; 22,12-14).
Khi Chúa hỏi Tôma Aquinô: “Con đã viết rất đúng về Ta, con muốn phần thưởng nào?”
– “Con chỉ muốn Chúa!

 

Là người công giáo Việt Nam,

Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.

Tiếng chuông ngân trầm,

Việt Nam nguyện cầu.

Tiếng chuông não nùng,

Việt Nam buồn thảm.

Tiếng chuông vang lừng,

Việt Nam khải hoàn.

Tiếng chuông thanh thoát,

Việt Nam hy vọng.

Con có một Tổ quốc Việt Nam,

Quê hương yêu quý ngàn đời.

Con hãnh diện, con vui sướng.

Con yêu non sông gấm vóc,

Con yêu lịch sử vẻ vang.

Con yêu đồng bào cần mẫn,

Con yêu chiến sĩ hào hùng.

Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn,

Núi cao, xương chất cao hơn.

Đất tuy hẹp, nhưng chí lớn,

Nước tuy nhỏ, nhưng danh vang.

Con phục vụ hết tâm hồn,

Con trung thành hết nhiệt huyết.

Con bảo vệ bằng xương máu,

Con xây dựng bằng tim óc.

Vui niềm vui của đồng bào,

Buồn nỗi buồn của dân tộc.

Một nước Việt Nam,

Một dân tộc Việt Nam,

Một tâm hồn Việt Nam,

Một truyền thống Việt Nam.

Là người công giáo Việt Nam,

Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.

Chúa dạy con, Hội Thánh bảo con.

Cha mong giòng máu ái quốc,

Sôi trào trong huyết quản con.